Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 23, Chúa Nhật 10.9.2006


MỤC LỤC 

Perfectae Caritatis Sắc Lệnh về Canh Tân Thích Nghi Đời Sống Dòng Tu              Vatican 2

Người tu sĩ SỐNG TÌNH BÁC ÁI HUYNH ĐỆ                                                                   GSVN

CHÚA Ở GẦN TA TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ                             + Gm. Phaolo Bùi Văn Đọc

KHI ÐẠI BÀNG VỖ CÁNH                                                              Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP.

“XIN TRẢ NỢ NGƯỜI”                                                                                                      Lm. Vĩnh Sang, DCCT

Giáo viên                                                                                         Lm. Phêrô Nguyễn Khảm

Tác phẩm Đào tạo và tự đào tạo thiêng liêng...        Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy, pss

ĐÁP LẠI TÌNH YÊU                                                                                   Trầm Tĩnh Nguyện

Ý NGHĨA và ƠN ÍCH  CỦA THÁNH LỄ MISA                                      Lm. PX. Ngô Tôn Huấn

Hai năm thương nhớ bạn: Lm. Nhà văn Jos. Vũ Xuân Huyên; Nhạc sĩ Lm. Từ Duyên...          Bùi nghiệp

Nhu Cầu Cận-Tử                                                                                    Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức


Perfectae Caritatis Sắc Lệnh về Canh Tân Thích Nghi Đời Sống Dòng Tu (tiếp theo)

 

Việc canh tân thích nghi đời sống dòng tu một trật bao gồm sự liên tục trở về nguồn mạch của đời sống Kitô hữu và ơn linh ứng nguyên thủy của hội dòng cũng như sự thích nghi hội dòng với những hoàn cảnh đổi thay qua các thời đại. Phải xúc tiến việc canh tân ấy dưới sự thúc đảy của Chúa Thánh Thần và sự hướng dẫn của Giáo Hội theo các nguyên tắc sau đây:

a) Theo Chúa Kitô như Phúc âm dạy là tiêu chuẩn tối hậu của đời tu dòng, nên tất cá các hội dòng phải coi tiêu chuẩn ấy như là quy luật tối thượng.

b) Chính để mưu ích cho Giáo Hội mà mỗi dòng có tính chất và phận vụ riêng. Do đó, phải trung thành nhận thức và noi giữ tinh thần cùng ý hướng đặc biệt của các Đấng Sáng Lập cũng như tất cả các truyền thống lành mạnh, vì tất cả những yều tố đó tạo nên di sản của mỗi hội dòng.

c) Mọi hội dòng đều phải tham dự đời sống Giáo Hội, và phải tùy tính chất riêng của mình mà đón nhận như thể chính của riêng mình và hết sức cổ võ những sáng kiến và đề nghị của Giáo Hội, như là trong lãnh vực Thánh Kinh, phụng vụ, tín lý, mục vụ, hiệp nhất, truyền giáo và xã hội.

d) Các hội dòng phải thúc đẩy các tu sĩ tìm hiểu đầy đủ về hiện trạng của con người, của thời thế và về các nhu cầu của Giáo Hội, làm sao để một khi biêt khôn ngoan nhận định những hoàn cảnh của thế giới ngày nay trong ánh sáng đức tin và biết nung nấu nhiệt tâm truyền giáo họ có thể nâng đỡ con người cách hữu hiệu hơn.  

e) Đời sống tu trì trước hết nhằm làm cho các tu sĩ theo Chúa Kitô và kết hợp với Thiên Chúa nhờ khấn giữ các lời khuyên Phúc âm; bởi thế, phải thận trọng cân nhằc: những nỗ lực tốt đẹp nhất nhằm thích nghi với các nhu cầu hiện đại sẽ chẳng sinh kết quả gì, nếu không được linh động nhờ sự canh tân về tu đức, Vì đó là yếu tố bao giờ cũng giữ địa vị then chốt, ngay cả khi phải xúc tiến các hoạt động bên ngoài.

Cách sống, cầu nguyện và hoạt động phải tùy theo tính chất của: mỗi dòng mà thích ứng với hiện trạng thể lý và tâm lý của các tu sĩ, cũng như vớí các nhu cầu tông đồ, những đòi hỏi văn hóa, những hoàn cảnh xã hội và kinh tế ở khắp mọi nơi, nhất là trong các xứ truyền giáo.

Cũng phải theo các tiêu chuẩn ấy mà duyệt lại đường lối quản trị các dòng.

Bởi vậy phải duyệt lại cho thích hợp các hiến chương, các sách “kim chl nam”, các bản qui luật, sách kinh và nghi thức cũng như các tập sách luật tương tự; phải loại bỏ nhửng qui tắc đã lỗi thời để thích nghi với các văn kiện của Thánh Công Đồng này.

Việc canh tân hữu hiệu và việc thích nghi đúng đắn chỉ có thể thành đạt với sự cộng tác của hết mọi tu sĩ trong dòng.

Nhưng ấn định các tiêu chuẩn và thiết lập các khoản luật về thích nghi canh tân cũng như cho phép thí nghiệm đầy đủ và khôn ngoan, phải là nhiệm vụ riêng cuả các vị có thẩm quyền, nhất là của tổng tu nghị, và nếu cần, với sự phê chuẩn của Tòa Thánh hoặc các Đấng Bản Quyền tùy theo Giáo Luật ấn định. Còn các Bề Trên, phải thăm dò và thu nhận ý kiến của các tu sĩ cách thích đáng trong những vấn đề liên quan đến toàn thể hội dòng.

Để thích nghi canh tân các đan viện nữ, cũng có thể đón nhận nguyện vọng và ý kiên của các hội đồng liên viện hoặc của các hội đồng khác đã triệu tập hợp pháp.

Tuy nhiên, mọi người nên nhớ là phải đặt niềm hy vọng canh tân vào việc gia tăng lòng cần mẫn tuân giữ qui luật và hiến chương hơn là làm thêm nhiêu luật mới.

Tu sĩ của bầt cứ hội dòng nào cũng phải ghi tâm điều này: chính nhờ khấn giữ các lời khuyên Phúc âm mà mình đã đáp ứng ơn thiên triệu, vì thế, chẳng những phải chết đi cho tội lỗi (x. Rm 6,11), nhưng còn phải từ bỏ thế gian để sống cho một mình Thiên Chúa. Thực vậy, họ đã tận hiến toàn thể cuộc đời để làm tôi Thiên Chúa, và sự tận hiến ây đã thực sự tạo nên một hiến lễ đặc biệt, ăn rễ sâu trong hiến lễ của ngày chịu phép rửa tội, đồng thời biểu lộ hiến lễ này cách trọn hảo hơn.

Vì sự tự hiến ấy đã được Giáo Hội chuẩn nhận, nên họ phải biết rằng họ đã được ràng buộc vào bổn phận phục vụ Giáo Hội.

Việc phụng sự Thiên Chúa như thế phải hối thúc và nung đúc họ thực hành các nhân đức, nhất là đức khiêm nhượng và vâng lời, can đảm và khiết tịnh, nhờ những nhân đức ây, họ tham dự vào sự tự hủy của Chúa Kitô (x. Ph 2, 7-8) và đồng thời sự sống của Người trong tinh thần (x. Rm 8, 1- 13).

Vậy, các tu sĩ phải trung thành với lời khấn của mình và vì Chúa Kitô, từ bỏ mọi sự (x. Mc 10, 28), để theo Người (x. Mt 19, 21) như một điều cần thiết duy nhất (x. Lc 10, 42), nghe lời Người (x. Lc 10, 39) và âu lo đến những gì thuộc về Người (x. 1 Cor 7, 32).

Vì thế, tu sĩ của bất cứ hội dòng nào, trong lúc chỉ đi tìm một mình Thiên Chúa trên hết mọi sự, đều phải liên kết việc chiêm niệm với nhiệt tâm truyền giáo: vì nhờ chiêm niệm, họ kết hợp lòng trí với Thiên Chúa, và nhờ nhiệt tâm truyền giáo, họ tham gia công cuộc Cứu Thế và mở rộng Nước Chúa.

Những ai khấn giữ các lời khuyên Phúc âm, đều phải tìm kiếm và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, vì Người đã yêu chúng ta trước (x. 1 Gio 4, 10); trong mọi hoàn cảnh, phải cố gắng phát triển đời sống ẩn dật cùng Chua Kitô trong Thiên Chúa (x. Col 3, 3), vì đó là nguồn mạch và động lực phát sinh tình yêu tha nhân nhằm cứu rỗi nhân loại và xây dựng Giáo Hội. Cũng chính đức mến này làm linh động điều khiển việc thực hành các lời khuyên Phúc âm.

Vì thế, tu sĩ của các hội dòng phải cần mẫn luyện tập tinh thần cầu nguyện và cả sự cầu nguyện, múc lấy nơi nguồn mạch đích thực của nền tu đức Kitô giáo. Trước hết, hằng ngày, phải có Quyển Thánh Kinh trong tay, để nhờ đọc và suy gẫm mà học được những “kiến thức siêu việt về Chúa Giêsu Kitô” (Ph 3,8). Phải theo tinh thần của Giáo Hội mà đem hết tâm hồn, miệng lưỡi chu toàn các Lễ Nghi Phụng Vụ, nhất là Mấu Nhiệm Thánh Thể, lại phải nuôi dưỡng đời sống tu đức bằng nguồn mạch phong phú ây.

Nhờ bổ sức nơi bàn Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể mà họ yêu thương các chi thể của Chúa Kitô như anh em, kính trọng và yêu mến các vị chủ chăn với tình con thảo họ phải mỗi ngày một hơn sống và cảm nghĩ với Giáo Hội, và tận hiến phụng sự sử mệnh của Giáo Hội.

Còn tiếp

VỀ MỤC LỤC

  Người tu sĩ SỐNG TÌNH BÁC ÁI HUYNH ĐỆ.

      

Một nhà thám hiểm nọ lênh đênh trên sóng nước. Trong những ngày tháng cô đơn ấy, anh rất thèm được liên hệ với thế giới bên ngoài. Thế nhưng, chỉ có một chú chim nhỏ, sáng nào cũng đến và đậu trên chiếc bè của anh.

Rồi một ngày kia, chú chim nhỏ không đến nữa và anh cảm thấy buồn khổ như mất đi một người bạn thân thương nhất.

Không phải chỉ những nhà thám hiểm sống trong hoàn cảnh đặc biệt như vậy, mà hơn thế nữa, tất cả chúng ta, từ già tới trẻ, từ nam tới nữ, đều cảm thấy sợ hãi trước sự cô đơn.

Đúng thế, một đứa bé  mở mắt chào đời, mà nếu thiếu vắng sự chăm sóc vỗ về đầy yêu thương của người mẹ, thì nó sẽ chỉ là một đứa bé èo uột và yếu đuối mà thôi. Vì thế, tại những nhà giữ trẻ, người ta thường hay cho phát ra những tiếng đập nhẹ nhàng, như tiếng đập phát đi từ trái tim người mẹ, làm cho  những em bé sẽ ăn ngon hơn và ngủ kỹ hơn.

Còn những người đã đứng tuổi, khi nghĩ đến cảnh xế chiều của mình, thường rùng mình trước sự vắng lặng cô đơn, nhất là những lúc đau yếu và bệnh tật, nên phải cố đi tìm cho mình một người bạn đời để cùng chia sẻ và nâng đỡ lẫn nhau, như tục ngữ đã bảo :

- Con nuôi cha không bằng bà nuôi ông.

Không phải chỉ con người, mà ngay cả chính Thiên Chúa dường như cũng ngán ngẩm trước nỗi cô đơn. Đúng thế, khi nằm trên thập giá, lúc bị treo lên giữa trời và đất, Đức Kitô đã phải lớn tiếng kêu cầu :

 "Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni", nghĩa là "Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" (Mt 27,46).

Chính vì vậy, ngay từ thưở đời đời, Thiên Chúa đã sống trong chan hòa yêu thương và cảm thông giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần như trong một mái gia đình đầm ấm.

 Từ những sự kiện trên, chúng ta thấy con người là một con vật mang tính cách xã hội. Có nghĩa là chúng ta không thể nào sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác trong một cộng đoàn, trong một xã hội.

Riêng chúng ta, những tu sĩ,  hiện nay chúng ta đang chung sống với nhau trong một cộng đoàn và cộng đoàn ấy chính là hội dòng chúng ta đã đầu tư suốt bao nhiêu năm trời. Để cho cộng đoàn ấy được tồn tại và phát triển, thì chúng ta không thể không sống tình bác ái huynh đệ.

TÌNH BÁC ÁI HUYNH ĐỆ THEO CÁI NHÌN CỦA CHÚA

Thực vậy, đời sống tu trì sẽ không thể nào tồn tại và phát triển, nếu chúng ta không thực thi tình bác ái huynh đệ. Chính những sai lỗi về nhân đức này sẽ làm cho cuộc sống chung trở nên ngộ ngạt , căng thẳng và nặng nề.

Vì vậy,  bác ái yêu thương là một bổn phận rất quan trọng, không phải chỉ cho người tu sĩ, mà còn cho bấy kỳ những ai muốn mang danh hiệu Kitô hữu. Đúng thế, chúng ta hãy nhớ lại quang cảnh của ngày phán xét chung, được thánh Matthêu mô tả như sau :

"Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han." Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?" Đức Vua sẽ đáp lại rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy." Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng." Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?" Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy." Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời." (Mt 25,31-46).

Qua hoạt cảnh này, chúng ta nhận thấy trong ngày sau hết, chúng ta sẽ bị Chúa  hỏi về vấn đề gì, nếu không phải là về tình bác ái yêu thương. Ngài không hỏi chúng ta làm bề trên hay bề dưới. Ngài không hỏi chúng ta đã lấy được mấy tấm văn bằng và đã viết được bao nhiêu cuốn sách. Ngài không hỏi chúng ta đã thành công hay thất bại. Nhưng Ngài hỏi chúng ta về tình bác ái yêu thương.

Tình bác ái yêu thương này phải được biểu lộ bằng những hành động, những việc làm cụ thể, bởi vì tư tưởng thì trừu tượng và khó kiểm chứng, còn lời nói thì nhiều lúc trở nên bôi bác giả hình, chỉ có những hành động, những việc làm cụ thể mới chứng thực tình bác ái yêu thương của chúng ta mà thôi. Và như thế, Ngài sẽ hỏi chúng ta có thực hiện những hành động bác ái yêu thương giúp đỡ những người chung quanh hay không ?

Số phận đời đời của chúng ta sẽ được Ngài ấn định chỉ dựa trên những hành động bác ái yêu thương ấy  :

"Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han." (Mt 25,34-35).

Cái chết là một hành trình đơn côi, bởi vì chúng ta sẽ phải bỏ lại sau lưng những người chúng ta thương mến, cùng với tất cả những gì chúng ta đã ra sức gầy dựng, chỉ những hành động bác ái yêu thương mới là những người bạn trung thành nhất, theo chúng ta qua bên kia cái chết và bào chữa cho chúng ta trước ngai tòa Thiên Chúa. Như một câu danh ngôn đã bảo :

- Đứng trước cái chết :

Những  gì chúng ta chắt  trồng hôm nay, thì người khác sẽ chiếm hữu.

Những gì chúng ta  mua sắm hôm nay, thì người khác sẽ hưởng dùng.

Chỉ những gì chúng ta cho đi hôm nay, mới mãi mãi thuộc hẳn về chúng ta mà thôi.

 Sở dĩ những hành động bác ái yêu thương có một giá trị to lớn trước mặt Chúa như thế, vì Ngài đã tự đồng hóa mình với những kẻ nghèo túng và bất hạnh, như chính Ngài đã xác quyết :

"Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy." (Mt 25,40).

LỜI MỜI GỌI SỐNG TÌNH BÁC ÁI HUYNH ĐỆ

Tới đây, chúng ta hãy âm thầm bước vào phòng tiệc ly chiều thứ năm tuần thánh, tham dự bữa tiệc cuối cùng của Chúa Giêsu, trước khi Ngài ra đi chịu chết. Chính trong giờ phút riêng tư và xúc động ấy, Ngài đã gửi đến các môn đệ, cũng như gửi đến mỗi người chúng ta lời mời gọi sống tình bác ái huynh đệ.

Ngài coi tình bác ái huynh đệ chính là giới luật mới của Ngài :

“Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 13,34).

Trong Cựu Ước có rất nhiều lệnh truyền và lệnh cấm, nhưng đối với Chúa Giêsu thì giới luật yêu thương là quan trọng hơn hết, bởi vì tất cả những lời các tổ phụ và các tiên tri dạy bảo đều qui hướng về đó.

Ngài coi tình bác ái huynh đệ chính là dấu chỉ để nhận ra người môn đệ Ngài :

“Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau." (Ga 13,35).

Như vậy, dấu chỉ để nhận ra người môn đệ Chúa không phải là có tên trong sổ rửa tội của giáo xứ, không phải theo đuổi một lý tưởng trong hội dòng, không phải là làm dấu thánh giá và tham dự thánh lễ, nhưng là tình bác ái huynh đệ. Nếu bây giờ thử gạt bỏ những phụ thuộc bên ngoài để chỉ căn cứ vào tình bác ái huynh đệ, thì liệu chúng ta có còn là người môn đệ đích thực của Ngài hay không ?

Và theo như Đức Cha Bùi Tuần đã diễn tả trong cuốn “Giới luật yêu thương”, thì trong ngày sau hết sẽ có một sự đảo lộn lớn : Kẻ vô thần không tin Chúa, chúng ta bảo họ là dân vô đạo, còn chúng ta dù đã tin Chúa, nếu không thực thi tình bác ái huynh đệ, thì cũng chỉ là một thứ dân vô đạo mà thôi. Những người tin Chúa, tưởng mình là con cái trong nhà, nhưng vì không sống tình bác ái huynh đệ, sẽ bị loại trừ. Còn những kẻ vô đạo, chưa tin nhận Chúa, nhưng lại sống tình bác ái huynh đệ, sẽ được Chúa đón nhận vào Nước Trời, như chúng ta đã thấy trong hoạt cảnh ngày phán xét chung.

Ngài tha thiết mời gọi các môn đệ hãy yêu thương nhau. Yêu thương đến độ dám hy sinh mạng sống mình vì nhau :

“Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình… Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.” (Ga 15,12-17).

Tình bác ái huynh đệ ấy phải được biểu lộ qua những việc làm cụ thể, như chính Ngài đã thực hiện trong buổi chiều ngày thứ năm tuần thánh, đó là quì xuống rửa chân cho các môn đệ. Ngài muốn chúng ta cũng hãy bắt chước Ngài mà làm như vậy :

“Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giê-su mặc áo vào, về chỗ và nói: "Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là `Thầy', là `Chúa', điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Ga 13,12-15).

Hơn thế nữa cũng trong buổi chiều đáng ghi nhớ ấy, Ngài còn khẩn khoản nguyện cầu cùng Chúa Cha cho các môn đệ luôn biết yêu thương và hợp nhất cùng nhau :

“Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta.” (Ga 17,11).

Ngài không phải chỉ cầu cho các môn đệ, mà còn cầu cho tất cả chúng ta, những người tin theo Ngài trong dòng thời gian, cũng biết yêu thương và hợp nhất cùng nhau :

“Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con.” (Ga 17,20-21).

TÌNH BÁC ÁI HUYNH ĐỆ CỦA NGƯỜI TU SĨ

Như đã trình bày : chúng ta không thể nào sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo hay như một pháo đài, trái lại chúng ta sống là sống với người khác trong một xã hội, trong một cộng đoàn. Và trong cuộc sống chung này, chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội, những buồn phiền…bởi vì nhân vô thập toàn, ai cũng có những sai lỗi và khuyết điểm của mình. Hơn thế nữa, bá nhân bá tánh, mỗi người đều có một tính tình riêng. Vì thế, cần phải xây dựng cộng đoàn, cần phải xây dựng cuộc sống chung trên tình bác ái huynh đệ. Tình bác ái huynh đệ này cần phải được biểu lộ bằng những hành động cụ thể.

Trước hết là đối với những sai lỗi của bản thân và của người khác, chúng ta phải có thái độ như thế nào ?

Sống trong cuộc đời, chúng ta giống như người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ phía trước đựng những sai lỗi của người khác, còn cái giỏ phía sau lưng đựng những sai lỗi của bản thân. Vì thế, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ những sai lỗi của người khác để rồi lên tiếng phê bình chỉ trích một cách gắt gao. Còn những sai lỗi của bản thân thì không nhìn thấy và nếu có nhìn thấy thì cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bênh vực vào bào chữa. Chúng ta thường cư xử một cách nghiêm khắc với người khác mà khoan dung với chính bản thân. Trong khi đó, Chúa dạy chúng ta phải khoan dung với người khác mà nghiêm khắc với chính bản thân.

Đối với những sai lỗi của bản thân, chúng ta cần phải nhận lỗi, xin lỗi và sửa lỗi, bởi vì chính những sai lỗi ấy đã làm cho cuộc sống chung trở nên ngột ngạt và nặng nề. Hơn thế nữa, có sửa lỗi, chúng ta mới thăng tiến bản thân, để rồi mỗi ngày một trở nên tốt lành và thánh thiện hơn. Đừng xét người, nhưng hãy xét mình. Đừng đấm ngực người, nhưng hãy đấm ngực mình mà rằng :

- Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.

Đối với những sai lỗi của người khác, chúng ta cần phải biết khoan dung và tha thứ, như lời Chúa truyền dạy :

“Bấy giờ, ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?" Đức Giê-su đáp: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy." ((18,21-22).

Nơi khác, Ngài cũng bảo :

“Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần trở lại nói với anh: `Tôi hối hận', thì anh cũng phải tha cho nó." (Lc 17,4).

Sở dĩ như vậy, bởi vì sự tha thứ cho người khác chính là điều kiện để được Chúa thứ tha :

"Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em.” (Mt 6,14-15).

Chúng ta không phải là quan tòa, nên đừng vội kết án người khác :

“Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha.” (Lc 6,37).

Tha thứ cho nhau chưa đủ, chúng ta còn phải tìm dịp thuận tiện, dùng những lời nói thành thực để giúp nhau uốn nắn sửa đổi những sai lỗi ấy :

"Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em.” (Mt 18,15).

Người sống tình bác ái huynh đệ sẽ không làm gương mù gương xấu, cũng như không làm điều ác cho người khác đã đành,  còn phải cầu nguyện và ước mong cho họ được những điều tốt lành, cũng như giúp đỡ họ bằng những việc làm cụ thể.

Người sống tình bác ái huynh đệ sẵn sàng lấy ơn đền cho oán, lấy tình thương xóa bỏ hận thù, không mong gì nơi người khác cũng như không chờ họ đền ơn đáp nghĩa. Hơn thế nữa, tình bác ái huynh đệ ấy phải lan rộng đến với cả những kẻ thù địch, như lời Chúa truyền dạy :

"Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính.” (Mt 5,43-45).

Trong trường hợp xảy ra bất đồng, người sống tình bác ái huynh đệ phải đi bước trước tiến đến sự hòa giải :

“Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.” (Mt 5,23-24).

Nếu bị kẻ khác làm cho phải khổ đau buồn phiền, người sống tình bác ái huynh đệ sẽ không nóng giận và mất kiên nhẫn, để rồi lấy ác báo ác :

"Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa.” (Mt 5,38-39)

Muốn được như vậy, người tu sĩ cần phải đặt tình bác ái huynh đệ của mình trên căn bản của lòng mến Chúa, hay nói cách khác, người tu sĩ  cần phải yêu thương người khác vì Chúa. Có như vậy, tình bác ái huynh đệ mới thực sự bền vững và vượt qua được những khó khăn và thử thách.

Chính lòng mến Chúa sẽ biến tình bác ái huynh đệ của chúng ta trở thành một nhân đức siêu nhiên, đồng thời cũng chính lòng mến Chúa sẽ là như chiếc đũa thần, biến những hy sinh nhỏ bé của chúng ta trở thành những sợi chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời, làm cho cuộc đời âm thầm và khiêm tốn của chúng ta thực sự có được một giá trị trước mặt Chúa.

Hơn thế nữa, với lòng mến Chúa, cuộc sống chung trong cộng đoàn sẽ đem lại cho chúng ta những lợi ích to lớn trong việc thánh hóa bản thân. Chẳng hạn, Chúa cho chúng ta sống bên cạnh một người có tính nóng nảy là để chúng ta tập cho mình được kiên nhẫn và dịu hiền…Khuyết điểm của người khác có thể gây nên đau khổ, nhưng cũng có thể đem lại lợi ích. Vì thế, chúng ta cần phải nhẫn nại, tránh kêu ca và lẩm bẩm, phê bình và chỉ trích.

Tính ích kỷ đòi mọi người phục vụ cho mình, còn tình bác ái huynh đệ đòi mình phải phục vụ cho mọi người. Phải vượt qua tính ích kỷ, chúng ta mới đạt tới mức độ trưởng thành trong cuộc sống tu trì.

Thiết tưởng một mẫu gương đáng cho mọi hội dòng noi theo và bắt chước, đó là mẫu gương của cộng đoàn Giêrusalem vào thời Giáo hội mới được khai sinh. Sách Tông đồ Công vụ kể lại như sau :

“Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ.” (Cv 2,42-47).

Công đồng Vaticanô II cũng khuyên chúng ta :

“Đời sống chung được nuôi dưỡng bằng giáo lý Phúc Âm, Phụng vụ Thánh và nhất là Bí Tích Thánh Thể phải được kiên trì trong lời cầu nguyện, trong sự hiệp thông cùng một tinh thần (x Cv 2,42), theo gương Giáo hội sơ khai, trong đó các tín hữu chỉ có một tấm lòng, một tâm hồn (x Cv 4,32). Là chi thể của Đức Kitô, các tu sĩ hãy mang lấy gánh nặng của nhau (x Gal 6,2) và trọng kính lẫn nhau trong tình giao hảo huynh đệ ( x Rm 12,10). Thực vậy, khi được tình yêu của Thiên Chúa nhờ Chúa Thánh Thần tràn đầy trong mọi tâm hồn (x Rm 5,5), cộng đoàn nên như một gia đình thực sự, đoàn tụ nhân danh Chúa, được hưởng sự hiện diện của Ngài (x Mt 18,20). Yêu mến là chu toàn luật pháp (x Rm 13,10) và là dây liên kết sự trọn lành (x Col 3,14); nhờ đức mến mà chúng ta biết rằng mình được chuyển từ cõi chết sang cõi sống (x 1Gio 3,14). Hơn nữa, sự hiệp nhất huynh đệ loan báo Đức Kitô đã đến (x Ga 13,35; 17,21) và phát sinh một năng lực tông đồ mãnh liệt” (DT  15).

KẾT LUẬN

Để kết luận, tôi xin kể lại một mẩu chuyện như sau :

Một ký giả, sau khi được dẫn đi tham quan thiên đàng và hỏa ngục, đã viết một bài báo và cho biết :

Thiên đàng và hỏa ngục đều giống nhau, nghĩa là những người ở hai nơi ấy đều được ngồi trước một bàn tiệc thịnh soạn, cao  lương mỹ vị, nhưng với một đôi đũa dài những hơn một mét…

Tuy nhiên, có một điểm khác biệt duy nhất, đó là những người ở dưới hỏa ngục thì cố gắng gắp và đút vào miệng của mình, nhưng vì đôi đũa quá dài, thành thử họ chẳng ăn được gì cả.

Trái lại, những người trên thiên đàng thì cũng cố gắng gắp, nhưng sau đó, người này đút vào miệng của người kia, nên tất cả đều được ăn no.

Cộng đoàn chúng ta cũng vậy. Tình bác ái huynh đệ sẽ biến cộng đoàn chúng ta đang sống trở thành một thiên đàng  dưới trần gian. Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu, nơi nào có tình yêu, nơi ấy có Thiên Chúa. Và nơi nào có Thiên Chúa, nơi ấy chính là thiên đàng vậy.

GSVN

VỀ MỤC LỤC

CHÚA Ở GẦN TA TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ

           

Sự hiện diện thực của Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể

Chúa Giêsu nói: “Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống."Người Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói : “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” Đức Giê-su nói với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” Đó là những điều Đức Giê-su đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Ca-phác-na-um. ( Ga 6:48-59 )

Thiên Chúa gần gũi ta trong mầu nhiệm Thánh Thể :

Trong bài giảng lễ Mình Máu Thánh Chúa, thánh Tôma Aquinô đã dựa vào một câu của sách Đệ nhị luật diễn tả niềm vui của Israel vì được Thiên Chúa tuyển chọn, được giao ước với Thiên Chúa: “Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người? (  Đnl 4, 7 )

Thánh Tôma sung sướng nhận ra rằng câu nói ấy của sách Đệ nhị luật đã được thể hiện cách trọn vẹn và lạ lùng cho Giáo Hội  là Israel mới. So sánh với việc  Thiên Chúa trong Cựu Ước  đã hạ mình ngỏ lời với Dân Israel qua ông Môsê và đã tỏ ra gần gũi với Dân, giờ đây chính Thiên Chúa đã trở thành xác phàm, đã làm người để ở giữa loài người. Người gần chúng ta đến mức ở trên bàn tay của ta, ở trong trái tim của ta nơi mầu nhiệm Mình Máu Thánh. Thánh Tôma vui mừng vì giờ đây mới thực sự có một Dân Thiên Chúa, Dân sống bằng sự sống của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đến gần đến mứùc độ không thể gần hơn được nữa.

Gần gũi đến mức trở thành cớ vấp phạm:

Điều đáng lẽ ra là nguồn gốc của niềm vui, lại là viên đá vấp ngã, là nguyên do của khủng hoảng. Theo đoạn Tin mừng Gioan vừa trích dẫn, điều đó đã xảy ra từ khi Chúa Giêsu đề cập đến mầu nhiệm Thánh Thể. Có nhiều người đã xầm xì phản đối. Thái độ khó chịu ấy vẫn tiếp diễn trong lịch sử Giáo Hội, cho đến ngày hôm nay vẫn còn làm cho Giáo Hội bị tổn thương trầm trọng. Người ta khó chịu vì không muốn có một Thiên Chúa ở gần như thế, không muốn một Thiên Chúa nhỏ bé như thế, một Thiên Chúa hạ mình thấp hèn như thế! Nhiều người muốn có một Thiên Chúa vĩ đại, một Thiên Chúa ở xa.

Và nhiều người đã cố gắng minh chứng một sự gần gũi như thế giữa Thiên Chúa với con người là không thể được. Người thì dựa vào Kinh Thánh, người khác dựa vào triết học, người khác nữa dựa vào khoa học.

Dựa vào Kinh thánh, lời Chúa Giêsu nói  Này là Mình thầy, Này là Máu Thầy có ý nghĩa gì? Phải chăng là một sự hiện diện thể lý? Hay lời đó của Chúa chỉ có ý nghĩa tượng trưng: Bánh và rượu này là dấu chỉ  Mình và Máu Thầy? Câu trả lời của Sách Thánh thật là rõ, và không còn có thể rõ hơn được nữa: “nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình...vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống”.  ( Ga 6, 53. 55 )

Khi có nhiều người do thái xầm xì phản đối, Chúa đã không giải thích  hay điều chỉnh lại  cho họ dễ chấp nhận hay trấn an họ: thịt tôi giống như của ăn, máu tôi giống như của uống. Nhưng Chúa còn khẳng định mạnh mẽ hơn: thịt tôi thật là của ăn, máu tôi thật là của uống. Tin vào mầu nhiệm Nhập Thể là tin Thiên Chúa có thể xác. Và đây là đức tin chân thật, đức tin tròn đầy. Chúa đến với ta trong thân xác, Chúa hiện diện với ta bằng thân xác. Thánh Phaolô đã so sánh sự hiệp thông thánh thể với sự kết hợp giữa người nam và người nữ: “Thật thế, có lời chép rằng cả hai sẽ thành một xương một thịt. Ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người”. ( 1 Cr 6, 16 – 17 )

Sự hiện diện thực của Chúa là một quyền năng chiếm hữu chúng ta, lôi cuốn chúng ta vào trong Người. Thánh Agostino, dù chịu ảnh hưởng khá nặng nề của thuyết tân Platon coi thường thân xác, thú nhận mình đã nghe một tiếng nói trong một dịp thị kiến : “Tôi là lương thực của những người trưởng thành; anh  lớn lên và ăn tôi, mà không biến đổi tôi trở nên thịt của anh, trái lại anh sẽ được biến đổi thành tôi.” ( Agostino, Confessiones VII, 10, 16 ). Chúa mới là trọng tâm, không phải chúng ta, khi chúng ta ăn Chúa, rước Chúa, chính Chúa thu hút chúng ta, làm cho chúng ta ra khỏi chính mình và đồng hoá với Chúa, nên một với Người, và nhờ Người mà nên một với nhau.

Ý nghĩa  sự hiện diện thực của Chúa trong thân xác Phục Sinh:

Điều khó hiểu  là làm thế nào một thân xác có thể hiện diện trong nhiều bánh thánh khác nhau, mà vẫn là thân xác ấy, bất kể thời gian hay nơi chốn? Khó hiểu vì tất cả chúng ta  đang sống trong thế giới  của sự chết, còn Chúa thì đã Phục Sinh, nên thế giới của Người là thế giới Phục Sinh. Chúng ta có thể cố gắng ra khỏi chính mình, hướng tâm trí chúng ta đến thế giới của sự Phục Sinh, nhưng thế giới ấy vẫn khác với thế giới chúng ta, là thực tại mà chúng ta không nắm bắt được. Thế giới ấy ở bên kia sự chết. Chúng ta chỉ có thể đến gần trong đức tin, vì Chúa từ thế giới Phục Sinh ấy đến đón chúng ta.

Chúng ta cố gắng suy nghĩ dựa vào ngôn ngữ của kinh thánh. Theo ngôn ngữ của kinh thánh, thân xác không chỉ là phần vật chất đối ngược với phần tinh thần, mà là cả con người, là một toàn thể tinh thần và thể xác không tách rời. Khi Chúa Giêsu nói “Ceci est mon corps”, có nghĩa là đây là tất cả con người của tôi hiện diện trong thân xác của tôi (Này là Mình thầy hiến tế vì anh em).  Đối với mỗi người chúng ta, thân xác vừa là một giới hạn, vừa là một nhịp cầu.

Thân xác giới hạn và phân cách. Thân xác tôi không thể cùng một lúc ở nhiều nơi. Nơi nào thân xác tôi chiếm hữu, không có chỗ cho một thân xác khác. Thân xác phân cách người này với người kia, làm cho người này ở ngoài người kia. Thân xác che đậy cái bên trong của tha nhân và của chính mình. Tôi không thể nào nhìn được nội tâm của người khác, và ngay cả chính nội tâm của tôi. Nhưng thân xác còn là một nhịp cầu. Nhờ thân xác mà chúng ta có thể gặp gỡ nhau và tiếp xúc với ngoại giới. Nhờ thân xác mà chúng ta có thể thấy nhau, nhìn nhau, xích lại gần nhau, đối thoại với nhau, biết nhau. Thân xác cho ta biết tha nhân là ai và là gì. Thân xác của tôi làm cho tha nhân có thể thiết lập tương quan với tôi.

Vì thân xác có hai mặt đối ngược, vừa phân cách vừa hiệp thông, tôi có thể sống trong thân xác theo hai phương hướng khác nhau. Cách sống ích kỷ phân cách tôi khỏi những người khác, làm cho tôi xa lạ với người khác, không thể gặp gỡ hay thông cảm với người khác. Tôi cô lập tôi ở trong thân xác. Nhưng tôi có thể có một cách sống hoàn toàn khác, đó là cách sống yêu thương, cởi mở hướng về tha nhân, bấy giờ thân xác không cô lập tôi, nhưng lại là nhịp cầu cho tôi. Tôi sống trong một thế giới mở, và con người tôi không ngừng được giải thoát để gặp gỡ tha nhân và tự hiến cho tha nhân .

Trong thế giới Phục Sinh, vì đã vượt qua thế gian, khía cạnh giới hạn hay phân cách của thân xác không còn nữa, chỉ còn lại khía cạnh gặp gỡ và hiệp thông. Đức Kitô Phục Sinh trong thân xác không còn bị giới hạn nào phân cách nữa, nhưng có thể tự hiến trọn vẹn, cởi mở  trọn vẹn. Chính vì lý do đó mà trong diễn từ Bánh Sự Sống của Tin mừng Gioan, Chúa  nối kết bí tích Thánh Thể với sự Phục Sinh. Rước Chúa là hiệp thông với Người và nhờ Người vượt qua mọi giới hạn, bước vào thế giới mở rộng cùng với Người, nhờ đó có khả thể Phục Sinh ( Ga 6, 54 ).

Rước lễ không chỉ là rước một miếng bánh, một miếng thân thể của Chúa, mà là chính Chúa, Đấng Phục Sinh, Đấng tự hiến cho chúng ta trên thập giá. Rước lễ không chỉ là một nghi thức. Rước lễ vừa là hiệp thông bí tích, vừa là hiệp thông thiêng liêng. Chúng ta tiếp xúc với một ngôi vị, gặp gỡ một ngôi vị. Chúng ta gặp gỡ Chúa, đón tiếp Chúa, gần gũi Chúa, gắn bó và nên một với Chúa. Chúa là Thiên Chúa và là con người, nên rước lễ không những là đón tiếp, là gặp gỡ, là yêu thương, mà còn là thờ lạy. 

+ Phaolô BÙI VĂN ĐỌC

Giám Mục Giáo phận MỸ THO  

+ Thần học của Đức Hồng Y Joseph Ratzinger trong tác phẩm “Thiên Chúa ở gần” ( Il Dio vicino, ed. san Paolo, 2005)

VỀ MỤC LỤC
KHI ÐẠI BÀNG VỖ CÁNH

 

Phúc Âm Nhật Ký Ngày 03.09.2006

Mc 7:1-8a.14-15.21-23

Ðầu óc tôi lúc này cứ miên man suy nghĩ về lời nhận định nhức nhối của một  viên chức cao cấp ở Tòa Thánh Vatican.  Vị ấy cho rằng giáo dân Việt nam sống đạo sốt sắng, nhưng lòng đạo không sâu.  Không hiểu tại sao vị ấy lại nói như thế ?  Căn cứ vào đâu để khẳng quyết như vậy?  Có bằng chứng gì không ?  Nếu đúng thế, phải làm cách nào cải thiện tình trạng bi đát ấy ? 

Thiết nghĩ câu nói ấy hàm ý chê giáo dân Việt nam chúng mình không đạo đức thật.  Sống đạo chỉ vụ hình thức, lễ nghĩa, theo truyền thống như những người Pharisêu và kinh sư ngày xưa.  Tôi bắt đầu tìm bằng chứng.  Không phải vô tình viên chức đó đã phán đoán công khai như vậy.  Có nhiều bằng chứng xác đáng lắm.

Trước khi kê khai những bằng chứng, tôi tự hỏi thế nào là sống đạo sâu ?  Thánh Giacôbê trả lời ngay : lòng đạo sâu xa căn cứ trên việc “khiêm tốn đón nhận Lời” và “đem Lời ấy ra thực hành.”[1]  Câu trả lời này quả thực đã giúp chúng ta hiểu được những quan tâm của những người Pharisêu và kinh sư hôm nay.  Họ đã đặt vấn đề với Chúa : “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa ?”[2]  Câu hỏi của họ có thực sự tỏ lộ họ đang quan tâm tới Lời Chúa không ?  Nếu thực sự quan tâm tới lời Chúa, họ có quá chú ý tới những hình thức bên ngoài và vụn vặt đó không ?

Những quan tâm của họ lộ ngay trong vấn đề nêu lên với Ðức Giêsu.  Họ bám sát Thày trò Ðức Giêsu để moi móc và chỉ trích.  Dựa trên những tiêu chuẩn truyền thống bên ngoài, họ kết luận về giá trị đạo đức của các môn đệ.[3]   Có lẽ trước khi ăn, nhiều lần Ðức Giêsu cũng chẳng rửa tay .  Nhưng tại sao họ không dám đụng tới Người ?  Câu hỏi của họ không còn thuần túy nằm trong lãnh vực tự nhiên. Rửa tay trước khi ăn không phải vì lý do vệ sinh, nhưng đã trở thành một truyền thống và lễ nghi tôn giáo.  Họ thắc mắc để nhằm tới lãnh vực tâm linh, đạo đức và tôn giáo. 

Theo Thomas Merton, khi thắc mắc như thế, không những người Pharisêu và kinh sư để lộ những quan tâm, mà còn cho thấy cách nhận thức về chính mình và thế giới.  Ðó cũng là cách tấn công và tố cáo đối phương một cách tế nhị.  Nhưng qua đó người ta cũng thấy lộ ra những giấc mơ và khát vọng muôn đời của họ.  Nắm rõ ý đồ hiểm độc của họ, Chúa Giêsu đã cao giọng “xỉa thẳng” vào mặt họ và mở rộng vấn đề.  Vượt trên truyền thống và nghi lễ, Người muốn định nghĩa cho mọi người thấy thế nào là con người có lòng đạo đức đích thực và sâu xa. 

Ðã đến lúc con người phải nhìn thật rõ những gì đang diễn ra chung quanh mình. Những tội ác ghê tởm không phải tự trên trời rơi xuống hay dưới đất mọc lên, nhưng từ lòng người chui ra.  Ðó là những sản phẩm của con người.  Những sản phẩm đó sẽ ảnh hưởng ngược lại và tạo ra một thứ người không phải là người.  Nhơ nhớp đến độ họ cũng không thể tưởng tượng và chịu đựng nổi chính mình![4]   Những tội ác Chúa liệt kê ở đây tương ứng với những lời Chúa dạy về sự công chính mới phát xuất từ Bát Phúc, sự công chính dẫn tới sự thanh sạch nội tâm.[5] 

Ðáng lý có những vấn đề cần phải đặt nặng hơn như “công lý, lòng nhân và thành tín.”[6]   Ðó mới là những đức tính cốt lõi trong Bài Giảng Trên Núi.  Những đặc tính đó làm thành ba mặt của lòng thanh sạch không thể tách rời nhau như Chúa Giêsu đã truyền.[7]  Nhờ đó, ta có thể nhận ra ai là người có lòng đạo đích thực và sâu xa.  Chúa không chê trách những việc theo truyền thống và nghĩa vụ xã hội.[8]   Nhưng phải biết tôn trọng những bậc thang giá trị.  Ðạo đức bao giờ cũng phải chiếm vị thế ưu việt.  Tâm hồn trong sạch là điều kiện cần thiết để con người tiến gần đến sự thánh thiêng của Thiên Chúa, chiêm ngưỡng Thiên Nhan, và trở thành người thờ phượng Thiên Chúa đích thực.  “Trong Tân Ước, trong sạch là một công trình của Thần Khí, Ðấng hoạt động trong tâm hồn các môn đệ qua đức tin và ơn Thanh tẩy.”[9]  

Những vấn đề thiêng liêng như thế làm sao lại có thể ngang hàng với những vấn đề trần tục, kể cả truyền thống cha ông ?  Người Pharisêu và kinh sư đã đặt sai vấn đề, chỉ vì tâm hồn họ không thanh sạch.  Cái nhìn của họ thật giới hạn.  Họ chỉ chú tâm tới vật chất và hoàn toàn theo những truyền thống cha ông.  Cha ông bảo sao, cứ thế mà làm.  Chẳng cần suy nghĩ nhiều.  Quần chúng lại càng ít đặt vấn đề hơn.  Bởi thế, chạnh lòng thương đám đông, Chúa mới mời mọi người suy nghĩ về bản chất của sự thanh sạch và đạo đức thực sự. 

Chỉ có tâm hồn thanh sạch mới có thể bay bổng để nhìn rõ mọi sự như Chúa.  Cần phải được giải thoát khỏi “cái tôi,” con người mới có thể nhìn cao hơn và sâu hơn.  Ðàng khác, “Muốn hiệp thông với Ðức Kitô và chiêm ngưỡng dung nhan Chúa, muốn nhận ra khuôn mặt Chúa nơi anh em và trong những công việc hàng ngày, cần phải có bàn tay vô tội và tâm hồn thanh sạch.  Bàn tay vô tội được chân lý tình yêu chiếu sáng.  Tình yêu này vượt trên sự lãnh đạm, nghi ngờ, sai lầm và ích kỷ.  Hơn nữa, rất cần những tâm hồn thanh sạch, những tâm hồn đã được vẻ đẹp Chúa thu hút trọn vẹn, những tâm hồn mang dáng vẻ dung nhan Chúa Kitô.”[10]

Trở lại vấn đề đặt ra ở đầu bài suy niệm hôm nay, chúng ta thấy lời chê trách của người ngoài có hợp lý không ?  Ðã thấy đủ bằng chứng về lòng đạo của chúng ta hay chưa ?   Chúng ta quá coi trọng lễ nghi hình thức, trong khi lại coi thường những vấn đề công bình, lòng nhân đạo và sự thành tín . Chúng ta rất khó hiệp nhất, tha thứ, đối thoại với nhau.  Công lý trở thành thứ yếu trước những truyền thống, quyền lợi, tổ chức, cơ cấu v.v.  Những vấn đề này đã được nói đến quá nhiều rồi.  Mỗi người có thể kiếm thấy bằng chứng đầy dẫy chung quanh mình và ngay nơi chính mình nữa.

Lạy Chúa, xin cho con đôi cánh đại bàng để con có thể bay thật cao và nhìn thật rõ những gì đang diễn ra trên mặt đất và trong tận đáy lòng con.  Xin sai Thần Khí đến hoạt động trong con để con trở thành người thờ phượng Chúa đích thực.   Amen.

lm đỗ vân lực, op

dzuize@gmail.com   


[1] Gc 1:21b.22. [2] Mc 7:5. [3] x. Mc 7:5. [4] x. Mc 7:21-23; Mt 15:10-20.

[5] x. Servais Pinckaers, O.P., The Pursuit of Happiness - God's Way – Living the Beatitudes, trans. Sr. Mary Thomas Noble, O.P, 1998, tr. 131.     [6] Mt 23:23.

[7] x. Servais Pinckaers, O.P., The Pursuit of Happiness - God's Way – Living the Beatitudes, trans. Sr. Mary Thomas Noble, O.P, 1998, tr. 131.    [8] x. Mt 23:23.

[9] Servais Pinckaers, O.P., The Pursuit of Happiness - God's Way – Living the Beatitudes, trans. Sr. Mary Thomas Noble, O.P, 1998, tr. 131.

[10] ÐGH Bênê đictô XVI : Seek Christ With Pure Hearts, Zenit, 01.09.2006.

 
VỀ MỤC LỤC
“XIN TRẢ NỢ NGƯỜI”

 

Quý độc giả Ephata và Giáo Sĩ Việt Nam thân mến,

Sáng nay, sau Thánh Lễ Chúa Nhật, cha Bề Trên cộng đoàn chúng tôi chào anh em để đi Tĩnh Tâm. Bác Hai – chúng tôi vẫn gọi ngài một cách thân mật như ngài muốn – đã quyết định chọn những ngày này để tĩnh tâm mừng kỷ niệm 50 lãnh thánh vụ Linh Mục. Tĩnh Tâm ? Nghe có vẻ chương chướng và không giống ai ! Bác vẫn thường nói với chúng tôi: “Năm mươi năm lãnh sứ vụ có gì để mà mừng, nếu có chỉ là cúi đầu xin lỗi Chúa vì đã bất trung với Chúa đến năm mươi năm !”

Năm 1981, khi đó tôi còn đang giúp việc cho ngài ở một Giáo Xứ nhỏ bé ngoại ô thành phố, ngài đã dạy cho tôi những bài học nhiều choáng váng, ngày đó ngài kỷ niệm vừa tròn 25 năm Linh Mục, tôi cứ tưởng ngài sẽ tổ chức như người ta vẫn thường làm, nên với tư cách là “chú tiểu”, tôi lo lắng những gì cần thiết cho ngày kỷ niệm, cuối cùng ngài huỷ bỏ tất cả và chỉ một Thánh Lễ đơn sơ bất ngờ. Trước giờ lễ, ngài bảo tôi đi mua một ít bánh kẹo để sau lễ... “cho con nít nó ăn chơi !”

Cũng năm đó, khi việc lãnh sứ vụ Linh Mục còn rất khó khăn, một người bạn của tôi được chịu chức, người ta (vâng, dĩ nhiên ) tổ chức rầm rộ và bạn tôi đã đi tạ ơn ở nhiều nơi, chắc cũng đã có nhiều quà cáp và tiệc tùng linh đình. Vì tình bạn, tân Linh Mục ngỏ ý muốn về dâng lễ tạ ơn ở Giáo Xứ tôi đang giúp, thế là “cụ chướng nhà tôi” rất sẵn lòng mời về một cách tha thiết, nhưng sau lễ tạ ơn thì không có gì hết, anh em kéo nhau xuống nhà xứ ăn bữa cơm tối, chỉ có... rau muống và cá khô như mọi ngày, khi ấy tôi đành chịu “muối mặt” với khách, còn ông cha mới thì... ngẩn tò te ! Sau này câu chuyện được truyền tụng đi khá rộng và khá xa trong giới Giáo Sĩ, và danh hiệu “cá khô” được nhắc đi nhắc lại ở nhiều nơi. Có vị biết chuyện bèn “phán” cho một câu: “Không bình thường !”

Chúa Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay ( Chủ nhật thứ 22 mùa Thường Niên B ) cũng “không bình thường” chút nào, và Chúa đã phải lãnh đủ những hậu quả của cái không bình thường ấy. Khi mọi người Do Thái đều rửa tay trước khi ăn theo tập tục của tiền nhân, thì thầy trò Chúa Giê-su lại bỏ qua việc đó. Chẳng trách gì “cụ chướng nhà tôi” được nhận định là... không bình thường !

Hôm qua thứ bảy sau Chúa Nhật thứ 21 Thường Niên, tôi đọc được bài gẫm của Hội Thánh, trích trong một bài giảng của Thánh Gio-an Kim Khẩu. Nghe ra bài giảng này cũng có hơi hớm “không bình thường”, tôi xin viết lại nơi đây một số đoạn, chắc nhiều người đọc xong cũng cảm thấy... “không bình thường”. Đành vậy !

“...Bạn muốn tôn kính thân thể Đức Ki-tô ư ? Chớ khinh chê thân thể ấy khi thân thể ấy trần trụi: đừng có thái độ này la:ø trong Nhà Thờ thì tôn kính, cho thân thể người mang những lụa là gấm vóc, nhưng ở ngoài lại coi thường, để cho thân thể ấy phải lạnh giá và trần trụi... Thân thể Chúa ở đây không cần y phục, nhưng cần tâm hồn trong trắng, còn thân thể Chúa ngoài kia thì cần được chăm lo tận tình...”

“...Đấng chúng ta tôn kính sẽ rất hài lòng khi chúng ta tôn kính theo cách Người chọn chứ không phải theo cách chúng ta nghĩ.... Thiên Chúa chẳng cần bình vàng chén bạc, nhưng cần những tấm lòng vàng...”

“...Ích lợi gì khi bàn của Đức Ki-tô thì chất đầy những bình vàng đang lúc chính Người lại phải chết vì chẳng có gì ăn ? Trước hết, hãy cho kẻ đói ăn no đã, rồi còn lại bao nhiêu sẽ đem trang hoàng cho bàn của Người. Sao bạn lại bỏ vàng ra làm chén lễ mà không chịu cho lấy một chén nước ? Bạn đem khăn vàng ra trải mặt bàn cho Người làm chi vậy, đang khi chính Người cần mảnh vải che thân, bạn lại không cho ? Làm thế thì ích lợi gì ? Bạn thử nói cho tôi nghe xem: nếu thấy Người đang cần của ăn mà không có, bạn bỏ mặc Người, rồi cứ đem vàng ra dát lên bàn của Người, liệu Người biết ơn bạn, hay đúng hơn, lại không nổi giận với bạn sao ? Rồi chi nữa: nếu bạn thấy Người mặc đồ rách bươm, toàn thân rét cứng, bạn chẳng nghĩ gì đến quần đến áo của Người, cứ lo xây cho Người hết cột vàng này đến cột vàng khác, mà bảo làm như vậy là tôn kính Người sao ? Người lại chẳng nghĩ là đang bị nhạo báng và bị sỉ nhục đến cực độ sao ?”

“...Cũng hãy suy nghĩ điều này về Đức Ki-tô khi Người lang thang đó đây làm thân lữ khách, không cửa không nhà: Bạn không đón Người vào nhà bạn, cứ lo lát nền nhà cho đẹp, lo trang trí tường vách, trang trí các đầu cột, lấy dây bạc treo đèn: còn chính Người đang bị xiềng xích trong tù, ghé thăm Người thôi, bạn cũng không chịu... Không hề có ai bị kết tội vì không trang trí Nhà Thờ, nhưng ai chểnh mảng việc làm phúc sẽ phải xuống hỏa ngục... Trang trí ngôi nhà thì cũng đừng hờ hững với người anh em sầu khổ, vì người anh em ấy còn đáng giá hơn cả đền thờ nữa...” ( Trích Kinh Sách, bản dịch của nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ ).

Tôi ghi lại những lời này, chắc những người đang chăm chút cho các Nhà Thờ với giá hàng tỉ đồng sẽ cho rằng tôi là loại người... không bình thường ! Đành vậy !

Chúng tôi bàn với nhau, hôm nào “cụ chướng nhà tôi” đi Tĩnh Tâm về, chúng tôi làm một bữa cơm, chỉ cơm thôi, thêm một món gì cho nó ngon ngon, thêm một chai bia cho nó vui vui, chẳng mời ai, toàn anh em trong nhà để mừng cụ.

“Năm mươi năm cụ trả nợ Người, trả nợ một đời cụ đã phụ ai...”, xin được phép sửa lời một bài hát của nhạc sĩ họ Trịnh.

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 3.9.2006

VỀ MỤC LỤC
Giáo viên

 

1. Thày dạy: hình ảnh người rao giảng Lời Chúa

Trong Tân Ước, rabbi là danh hiệu được dành cho Chúa Giêsu nhiều hơn bất cứ danh hiệu nào khác. Ngay từ khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, thánh sử Luca đã mô tả trẻ Giêsu “ngồi giữa các thày dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi” ( Lc 2, 46). Hơn thế nữa, thánh Luca đã nhấn mạnh tác vụ giảng dạy của Chúa Giêsu trong thời điểm đỉnh cao sứ vụ của Ngài (chương 19 & 20). Chính Chúa Giêsu xác nhận: “Hằng ngày tôi ngồi giảng dạy trong đền thờ” (Mt 26, 55; Ga 18,20). Và chính việc giảng dạy này được trưng dẫn làm lý do buộc tội và lên án Chúa Giêsu: “Y thúc đẩy dân dấy lên, giảng dạy trong toàn cõi Giuđê, khởi từ Galilê cho đến đây” (Lc 23,5).

Các tông đồ tiếp nối sứ vụ giảng dạy này: các ngài giảng dạy trong đền thờ (Cv 5,21) cũng như ngoài đền thờ (Cv 4,2). Sách Công Vụ ghi nhận rằng cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên tỏ ra “chuyên cần với giáo huấn của các tông đồ và sự hiệp thông, việc bẻ bánh và cầu nguyện” (2,42). Điều làm cho những kẻ thù của Giáo Hội lúc đó bực bội chính là vì các tông đồ dám giảng dạy cho dân, và họ ra lệnh cho các ngài không được giảng dạy nhân danh Chúa Giêsu nữa (x. Cv 4,2.18.) Không lạ gì trong đời sống Giáo hội, hình ảnh thày dạy là hình ảnh phổ biến nhất để mô tả chân dung người rao giảng Lời Chúa.

Trong Tân Ước, thuật ngữ chuyên môn được dùng để nói về việc giảng dạy là didaskein, có nghĩa là dạy dỗ, và thuật ngữ này được sử dụng gần 100 lần trong Tân Ước. Một thuật ngữ khác cũng được sử dụng là katechein (catechesis) mà ta thường gắn với việc dạy Giáo lý. Trong suốt năm thế kỷ đầu tiên, từ catechesis được dùng để chỉ việc dạy giáo lý cho những người chuẩn bị lãnh nhận Thánh Tẩy (baptismal catechesis) cũng như cho những người mới được rửa tội (mystagogical catechesis).17

2. Cho đời sống linh mục: Những đòi hỏi của nhiệm vụ giảng huấn

Giảng dạy là trách nhiệm chính của linh mục, và linh mục thi hành nhiệm vụ này cách cụ thể khi dạy giáo lý và khi giảng lễ. Ở đây có một vấn đề còn gây tranh cãi giữa các nhà nghiên cứu liên quan đến việc giảng lễ (homilia): homilia có phải là dạy giáo lý không? Toà giảng trong Thánh Lễ Chúa nhật có phải là chỗ để dạy giáo lý không? Rất tiếc là chúng ta không thể đi sâu vào vấn đề này trong khung cảnh tuần tĩnh tâm. Vấn đề đặt ra là linh mục phải làm gì để có thể chu toàn nhiệm vụ giảng dạy đã được giao phó cho mình?  Walter J. Burghardt là một linh mục dòng Tên và được coi là một trong những nhà giảng thuyết nổi tiếng nhất của Hoa Kỳ. Trong tác phẩm The Art and the Craft, dựa vào kinh nghiệm lâu năm trong giảng dạy, ngài nói đến một số lý do khiến cho trách nhiệm giảng dạy của linh mục không đạt kết quả. Không hẳn là chúng ta sẽ đồng ý với những nhận định của tác giả. Dẫu sao, những nhận định này cũng có thể giúp cho mỗi linh mục nhìn và đánh giá lại trách nhiệm giảng dạy của mình. 

Lý do đầu tiên là sợ Thánh Kinh.

Kể cũng lạ! Linh mục có trách nhiệm rao giảng Lời Chúa mà chẳng nhẽ lại sợ Thánh Kinh. Ở đây tác giả muốn nói đến nguy cơ là linh mục không tập trung nghiên cứu bản văn Thánh Kinh cho kỹ, và không tìm cách tiếp cận với những tiến bộ trong lãnh vực nghiên cứu Thánh Kinh. Ngày xưa, Maria Magđala đã kêu lên: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi và tôi không biết họ đã đặt Người ở đâu!” (Ga 20, 13). Tương tự như thế, ngày nay một số linh mục cũng kêu lên: “Các nhà chú giải đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Chúa ở đâu nữa!” Có lẽ cũng có một phần sự thật chứa đựng trong lời than thở đó vì đôi khi ta có cảm tưởng khoa chú giải Kinh Thánh chỉ còn là nghiên cứu thuần lý thuyết chứ không giúp gặp gỡ Chúa! Nào là Phê bình lịch sử, Phê bình văn bản, rồi giải thích Kinh Thánh theo khuynh hướng nữ quyền hay khuynh hướng xã hội... Đến cả  những chân lý căn bản xem ra cũng bị đe doạ khi các nhà nghiên cứu Thánh Kinh đặt vấn đề: Chúa có làm phép lạ thật không? Những lời này có phải là lời của Chúa Giêsu không hay chỉ là lời mà tác giả Sách Thánh đặt vào môi miệng của Chúa? Đức Maria có đồng trinh thật không?...

Nhận xét trên có thể phản ánh một phần sự thật nhưng không phải là tất cả sự thật. Thánh Kinh luôn luôn là nguồn mặc khải quan trọng nhất và là cơ sở chính yếu ta phải dựa vào để rao giảng Lời Chúa. Tuy nhiên, Thánh Kinh đã được viết bằng tiếng Aram hay Hi Lạp, trong một thời đại và môi trường văn hoá xã hội khác xa ngày nay. Chính vì thế, “để hiểu đúng ý nghĩa tác giả Thánh Kinh muốn quả quyết trong bản văn, chúng ta phải chú tâm đúng mức đến các cách thức cảm nghĩ, diễn tả, tường thuật do bẩm sinh, được thịnh hành trong thời của họ, cũng như phải để ý đến các hình thức mà người thời ấy thường dùng khi giao tế với nhau.”18  Chính ở đây, những nghiên cứu của khoa chú giải là những phương tiện cần thiết giúp cho linh mục hiểu Lời Chúa hơn, nhờ đó có thể giảng dạy cho người khác cách phong phú và hiệu quả hơn 

Lý do thứ hai là thiếu nghiên cứu thần học

Đối với thần học cũng thế.  Do thời gian và năng lực phải dành cho các công việc mục vụ, việc nghiên cứu thần học dễ bị gạt sang bên lề đời sống của linh mục giáo phận . Hơn thế nữa, thần học ngày nay có đủ thứ trường phái, đủ thứ lập trường... lại chỉ toàn là lý thuyết, xem ra không ăn nhập gì với thực tế đời sống cả. Trong nhiều thập niên vừa qua, suy tư thần học đã bị biến thành công tác nghiên cứu khoa học thuần túy và bị cắt đứt khỏi mối liên hệ sống động với linh đạo, khác hẳn cách suy tư thần học của các giáo phụ. Thêm vào đó, lại có nhận định rằng suy tư thần học hoàn toàn xa rời với cuộc sống. Phương pháp luận của Thần học giải phóng và những nền thần học sau này là phản ứng cụ thể đối với tình hình trên.19 Vì thế, người rao giảng Lời Chúa dễ xa rời những nghiên cứu thần học vì xem ra chẳng giúp gì được cho việc rao giảng Lời Chúa.

Tuy nhiên, Giáo Hội căn dặn các linh mục rất cụ thể: “Trong thời đại chúng ta, văn hoá nhân loại và cả những khoa học thánh cũng tiến thêm một bước mới, nên khuyên các linh mục hãy hoàn bị kiến thức của mình về Thiên Chúa và về nhân loại cách thích hợp và liên tục. Như thế, các ngài tự chuẩn bị để đối thoại với những người đương thời cách thích hợp hơn.”20

Trong thực tế, có rất nhiều vấn đề mới của từng thời đại mà linh mục không thể không quan tâm. Cách đây chỉ một vài thập niên, những vấn đề liên quan đến luân lý sinh học xem ra còn xa lạ với Việt Nam nhưng ngày nay đã trở thành những vấn đề mà linh mục không thể không quan tâm vì phải đối diện thường xuyên. Ngoài ra, ngày nay người ta nói khá nhiều đến thần học bối cảnh (contextual theology). Suy tư thần học luôn khởi đi từ bối cảnh sống cụ thể, với những vấn đề mà bối cảnh đó đặt ra cho mình. Theo ý hướng đó, các linh mục Việt Nam không thể không quan tâm đến những suy tư thần học và mục vụ của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC) vì chúng ta có chung một bối cảnh văn hoá, kinh tế, xã hội với các Giáo hội địa phương tại Á châu. Hơn thế nữa, Giáo hội Việt Nam là một Giáo hội khá đông dân số tại Á châu và là thành viên chính thức của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu. Tuy nhiên xem ra những suy tư thần học và mục vụ của FABC về Giáo Hội, về hội nhập văn hoá, về đối thoại tôn giáo, cộng đoàn Giáo hội cơ bản.... còn khá xa lạ với ta, nếu không nói là chưa hề nghe tới.

Lý do thứ ba là thiếu cầu nguyện

Fulton Sheen là vị giám mục nổi tiếng về giảng thuyết tại Hoa Kỳ. Có lần ngài và Richard Burton được mời dự bữa tiệc lớn. Vì cả hai đều là những nhân vật nổi tiếng trên cả nước nên vị chủ tiệc mời cả hai vị lên diễn đàn đọc Thánh Vịnh 23 Chúa là Mục Tử. Richard Burton đọc thánh vịnh đó với tất cả sự điêu luyện của một diễn viên kịch Shakespear, và mọi người hoan hô hết mình. Đến lượt Fulton Sheen, ngài đọc thánh vịnh đó với tất cả tâm tình cầu nguyện, làm cho người nghe thấm được ý nghĩa và chiều sâu của thánh vịnh, và cả hội trường im phăng phắc lắng nghe. Khi ngài đọc xong, vị chủ tiệc đưa ra nhận xét mà ai cũng hài lòng: Richard Burton biết Thánh Vịnh, còn Fulton Sheen biết Mục Tử.21

Một nhận xét sâu sắc vì đã diễn tả được chiều sâu tâm hồn của một giám mục khi giảng Lời Chúa: tâm tình cầu nguyện. Chính Fulton Sheen đã xác nhận là ngài thường xuyên soạn bài giảng bằng cách quỳ gối trước Thánh Thể. Chính vì thế, khi bàn về nghệ thuật giảng thuyết, tiến sĩ William Graham của Đại học Công giáo Hoa Kỳ nhận định rằng: kỹ năng mà thôi chưa đủ vì linh mục giảng thuyết còn cần đến điều gì đó khác hơn các diễn giả: giảng thuyết đích thực đến từ con tim và linh hồn chứ không chỉ từ cái đầu và cổ họng! Nói một cách khác, “Giảng là cầu nguyện, giảng là phụng vụ, giảng là thờ phượng. Nhưng để bài giảng trở thành việc thờ phượng thì người giảng phải là con người của thờ phượng; phải là người nói chuyện với Chúa, lắng nghe Chúa, vật lộn với Chúa. Điều đó đòi hỏi phải có sự kết hợp mật thiết của người giảng với Chúa Kitô, sự kết hợp mà thánh Phaolô diễn tả bằng cụm từ “In Christo” hàm nghĩa sự cộng sinh của hai nhân vị.”22

Lý do thứ tư và là lý do rất thực tế: lười soạn bài

Walter Burghardt kể câu truyện có vẻ tiếu lâm: có một chủng sinh học môn Thần Khí Học và không đạt điểm. Khi giáo sư chất vấn anh ta tại sao không chịu học thì nghe anh ta lý luận: Tôi không học những lý thuyết về Thần Khí nhưng tôi học để Thần Khí hướng dẫn. Giáo sư trả lời: Thế Thần Khí  có dẫn anh vào thư viện không? Nếu không thì tôi e rằng nguy lắm!

Câu truyện trên là minh hoạ cụ thể cho thái độ cần thiết của người giảng Lời Chúa, đó là thái độ cộng tác với ơn Chúa. Một đàng, phải trông cậy vào Chúa như thể tất cả mọi sự tùy thuộc vào Người; đàng khác, phải làm hết sức mình như thể mọi sự tùy thuộc vào mình. Chính vì thế, Walter Burghard đề nghị: đối với linh mục, phải xem chuyện không soạn bài giảng là một tội! Không biết anh em linh mục có bao giờ xét mình về vấn đề này khi dọn mình đi xưng tội không?

Liên quan đến việc soạn bài giảng, linh mục có thể ít soạn bài vì nhiều lý do. Lý do thứ nhất là quá bận bịu với những công việc mục vụ khác đến nỗi không còn thời giờ để soạn bài. Ở đây, có lẽ phải chân thành nói với nhau rằng: vấn đề không phải là ở chỗ không có thời giờ cho bằng điều gì được coi là chiếm vị trí ưu tiên trong ngày sống của mình. Chân thành nhìn lại cách sử dụng thời giờ của mình sẽ giúp ta khám phá đâu là mối ưu tiên hàng đầu trong đời sống linh mục. Nếu linh mục xác tín rằng rao giảng Lời Chúa là nhiệm vụ hàng đầu và toàn tâm toàn ý với công việc này thì chắc chắn linh mục sẽ tìm ra thời giờ để chuẩn bị bài giảng cho tốt.

Cũng phải nói đến một lý do khác khiến linh mục cảm thấy không cần soạn bài, đó là những bài giảng dọn sẵn. Hiện nay có rất nhiều bài giảng dọn sẵn dưới nhiều hình thức: sách vở, internet, tài liệu của các nhóm... Có thể nói những bài giảng này là con dao hai lưỡi vì một đàng giúp cho linh mục thêm chất liệu giảng dạy, nhưng đàng khác cũng có thể làm cho linh mục ỷ lại và làm kiệt quệ sự tìm tòi sáng tạo riêng của linh mục. Vì thế, hầu như tất cả các tác giả chuyên về môn giảng thuyết đều khuyên là không nên sử dụng những tài liệu này trước khi chính mình đọc Thánh Kinh, cầu nguyện, và chọn chủ đề cho bài giảng sắp tới.

Kết luận:

Phân tích những lý do ngăn cản linh mục trong nhiệm vụ rao giảng Lời Chúa cũng là cách để thấy được những gì cần làm để có thể chu toàn trách nhiệm của linh mục là thày dạy. Xin khép lại những gợi ý trên bằng tâm tình chia sẻ và cũng là lời nhắn nhủ Đức Gioan Phaolô II gửi đến các giám mục, cũng là gửi đến các linh mục, những cộng tác viên đắc lực của hàng giám mục:

“Rất nhiều gánh nặng được chất trên vai một giám mục. Bản thân tôi cũng có kinh nghiệm đó và tôi đã thấy là mình thiếu thời gian để làm mọi việc. Thế nhưng kinh nghiệm cũng dạy tôi rằng sự tĩnh lặng và việc nghiên cứu cần thiết cho một giám mục biết chừng nào. Giám mục cần được đào tạo về thần học cách sâu sắc và theo kịp thời đại, và cần quan tâm nhiều hơn đến đời sống trí thức cũng như Lời Chúa. Đó là những kho tàng mà những con người suy tư chia sẻ cho nhau. Vì thế, tôi muốn nói đến vai trò của việc đọc sách trong đời sống giám mục của tôi. Tôi cứ phải tự hỏi: đọc cái gì? Và tôi cố gắng chọn những gì thiết yếu nhất. Ngày nay có biết bao nhiêu ấn phẩm! Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là mọi sách vở đều có cùng một giá trị và cùng mang lại hiệu quả như nhau. Phải biết chọn lựa và hỏi ý kiến xem nên đọc cái gì......... Khi đọc sách và nghiên cứu, tôi luôn luôn tìm cách kết hợp cách hài hoà những chiều kích của đức tin, lý trí, và con tim. Đó không phải là những lãnh vực biệt lập nhau nhưng mỗi lãnh vực đều thấm nhập và linh hoạt lãnh vực khác. Trong mối tương quan hỗ tương giữa đức tin, lý trí và con tim, điều gây ảnh hưởng đặc biệt chính là sự ngỡ ngàng phát xuất từ huyền nhiệm về con người, từ sự giống nhau giữa con người với Thiên Chúa Tam Vị Nhất Thể, từ mối tương quan sâu xa giữa tình yêu và chân lý, từ huyền nhiệm trao ban cho nhau làm phát sinh sự sống, từ việc chiêm ngắm sự nối tiếp của nhiều thế hệ nhân loại. ”23

Lm. Phêrô Nguyễn Khảm
 

VỀ MỤC LỤC
Giới thiệu tác phẩm Đào tạo và tự đào tạo thiêng liêng của các linh mục...

 

LTS.

Trong khả năng rất giới hạn, Đặc San GSVN sẽ vinh dự được phổ biến nhiều kỳ liên tiếp vế tác phẩm hết sức giá trị và thiết yếu cho đời sống Hội Thánh Việt Nam:

 

ĐÀO TẠO VÀ TỰ ĐÀO TẠO THIÊNG LIÊNG CỦA CÁC LINH MỤC TƯƠNG LAI 

 

TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM NGÀY NAY

 

Nguyên bản tiếng Anh

Micae-Phaolô TRẦN MINH HUY

Linh mục Xuân Bích

 

Bản dịch Việt ngữ

Vincentê Trần Minh Thực

Gioan Baotixita Nguyễn văn Hào

Linh mục Ứng viên Xuân Bích

 

Nihil Obstat: Fr. Domingo Moraleda, CMF

Imprimi Potest: Fr. Jose Ma. Ruiz Marquez, CMF

Imprimatur: Most Rev. Antonio R. Tobias, JCL, DD

Bishop Diocese of Novaliches

 

Xuất bản và giữ bản quyền

Học Viện Đời Sống Thánh Hiến tại Á Châu

Institute for Consecrated Life in Asia (ICLA)

U.P. P.O. Box 4, 1101 Diliman, Quezon City

Tel. Nos. 932-0343-44    Fax No.: 932-0346

E-mail: icla@i-manila.com.ph

Webpage: http://icla.claret.org

ICLA (Học Viện Đời Sống Thánh Hiến tại Á Châu) là một trung tâm đào tạo cao đẳng của Giáo Hội do các nhà truyền giáo Dòng Claret đề xướng. Ý hướng của ICLA là cống hiến cho các nam nữ tu sĩ của Á Châu một suy tư được bối cảnh hóa và hội nhập văn hóa về đời sống thánh hiến, ngõ hầu giúp họ sống sứ vụ mà họ đã được gọi vào. 

 

ĐỀ TẶNG

Trước hết, tôi hiến dâng công trình này của đời tôi cho Đức Mẹ Lavang. Mẹ đã thay thế mẹ yêu dấu của tôi, sau khi mẹ tôi qua đời và trong suốt cả cuộc đời tôi nơi trần thế này. Mẹ tôi đã dạy tôi yêu thương, tha thứ và lớn lên giữa muôn vàn khó khăn, hiểu lầm và đau khổ.

Thứ hai, tôi muốn hiến dâng công việc ưa thích này cho công cuộc đào tạo linh mục của Giáo Hội Việt Nam, qua Hội Các Linh Mục Xuân Bích, mà ơn gọi là tham dự vào việc đào tạo linh mục, khởi đầu và thường xuyên, của Giáo Hội, đặc biệt cho các chủng sinh được trao phó cho tôi trách nhiệm và chương trình bảo trợ ơn gọi “Cho Một Tương Lai Tốt Đẹp Hơn” mà tôi đã thành lập và tiếp tục điều khiển cho đến nay.

CÁM   ƠN

Lòng biết ơn sâu xa từ đáy lòng tôi đến với Chúa Ba Ngôi, vì đã khấng ban và nuôi dưỡng quà tặng sự sống cho tôi, qua gia đình tôi, nhất là người mẹ quá cố vẫn hằng gần gủi với tôi.

Tôi trân trọng bày tỏ lòng biết ơn đối với các thẩm quyền Giáo Hội và Xã Hội Việt Nam và Phi Luật Tân, các Bề Trên Hội Các Linh Mục Xuân Bích, cách riêng Đức Cha Phaolô Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh, Cha Domingo Moraleda, Giám đốc Học Viện Đời Sống Thánh Hiến tại Á Châu, đã cho phép và tạo mọi điều kiện cần thiết cho tôi theo học tại ICLA.

Tôi chân thành cám ơn các giáo sư lão luyện của tôi tại ICLA, vì các giáo trình tuyệt vời của họ đã khơi gợi cho tôi những soi sáng hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Tôi cám ơn đặc biệt cha Moraleda, người cố vấn cho tôi, nếu không có sự nâng đỡ đặc biệt của ngài, cuốn sách này không thể ra đời. Theo gợi ý của ngài, cuốn sách này đến từ luận văn ra trường của tôi, mà tôi đã cống hiến tất cả thời giờ và mối quan tâm của tôi.

Mặc dù tôi đã làm việc rất căng mỗi ngày trong suốt hai năm hồng ân tại ICLA, luôn luôn nghĩ đến các chủng sinh được giao phó cho tôi trách nhiệm, tôi không thể tránh được các thiếu sót. Vì vậy, tôi rất biết ơn những người sẽ giúp tôi sửa chữa, trau chuốt và cập nhật hóa công cuộc này của toàn thể Dân Chúa. Nếu công việc khiêm tốn của tôi sẽ được sử dụng, ngay cả chỉ một phần rất nhỏ, vì vinh danh Chúa và lợi ích của Giáo Hội, tôi rất hạnh phúc và đã được tưởng thưởng rồi.

Tạ ơn Chúa và cầu chúc mọi sự tốt đẹp cho tất cả mọi người. Ngợi khen Chúa!

Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy, pss

 

LỜ I   TỰA

Nuôi dưỡng tiến trình canh tân đời sống và sứ vụ của Giáo Hội, được Chúa Thánh Thần khởi sự, qua Công Đồng Vaticanô II, là thách đố quan trọng nhất cho các chủ chăn của Giáo Hội, suốt thời kỳ hậu công đồng cho đến thời đại chúng ta. Một trong những mối quan tâm nghiêm túc nhất của các ngài là công cuộc đào tạo thiêng liêng toàn diện cho các linh mục tương lai, những vị lãnh đạo phục vụ của các cộng đồng kitôgiáo, bởi vì công cuộc  canh tân Giáo Hội tùy thuộc phần lớn ở sứ vụ linh mục, được tác động bởi Thần Khí Đức Kitô.

Đàng khác, hoàn cảnh đặc biệt của Việt Nam và những thực tại thay đổi nhanh chóng của thế giới toàn cầu hóa đưa ra nhiều thách đố và cơ hội khả dĩ trong lãnh vực đào tạo. Làm sao chuẩn bị các linh mục tương lai có khả năng đáp ứng những nhu cầu cấp bách của Giáo Hội và Xã Hội trong bối cảnh Việt Nam ngày nay?

Cha Micae-Phaolô Trần Minh Huy, một linh mục Xuân Bích, với nhiều năm dài kinh nghiệm trong tiến trình đào tạo các chủng sinh địa phận Việt Nam, đã nghiêm chỉnh cố gắng tiếp lại sinh khí cho công cuộc đào tạo thiêng liêng cho các linh mục tương lai của Việt Nam. Ngài mô tả cho thấy một công cuộc đào tạo thiêng liêng được đổi mới, cá nhân hóa và bối cảnh hóa cho các linh mục Việt Nam trong các thông số của khoa Giáo Hội học về hiệp thông và sứ vụ của Công Đồng Vaticanô II, cùng những hướng dẫn của Huấn Quyền Giáo Hội, ở mọi cấp độ hoàn vũ, Á châu và Việt Nam. Ngài nhấn mạnh, với một sự nhạy cảm đặc biệt, công cuộc đào tạo các linh mục Việt Nam tương lai về sự cộng tác với giáo dân và đối thoại với các nền văn hóa, với tín đồ của các tôn giáo truyền thống khác, với người nghèo và với những người cộng sản, thể theo tình hình đặc biệt của Giáo Hội Việt Nam.

Khuôn mẫu của các linh mục Việt Nam tương lai là Chúa Giêsu Nadarét. Công cuộc đào tạo sẽ là một thứ hành trình thiêng liêng, một tiến trình đồng hình đồng dạng hóa các ứng sinh với khuôn mẫu. Theo tiến trình thiêng liêng này, vị linh mục tương lai được nhắm đến phải là một con người của Thiên Chúa, thấm nhuần sâu xa vừa thiêng liêng vừa nhân bản, trong những mối tương quan hài hòa, quân bình và trưởng thành với chính mình, với Thiên Chúa, với tha nhân và với tạo thành, trong viễn ảnh cánh chung của Nước Thiên Chúa.

Tác giả cống hiến một hành trình thiêng liêng rất thích hợp cho giai đoạn đào tạo khởi đầu và đào tạo thường xuyên. Phải xác tín rằng cuốn sách này là một món quà quí giá cho Giáo Hội Việt Nam, đặc biệt cho những ai dấn thân vào sứ vụ tế nhị của công cuộc đào tạo và cho chính các chủng sinh. Xuyên qua từng dòng từng đoạn của nó, chúng ta có thể khám phá thấy một công cuộc tra cứu và học hỏi nghiêm túc các hướng dẫn của Giáo Hội trong lãnh vực đào tạo linh mục tương lai, nhưng trên hết, chúng ta có thể đánh giá cao tình yêu sâu xa của tác giả đối với Giáo Hội, các chủng sinh và linh mục Việt Nam.

Linh mục Domingo Moraleda, CMF

Giám Đốc ICLA

Xin đón đọc nội dung sách trong các số báo kế tiếp.

GSVN chân thành cám ơn tác giả đã chấp thuận cho Đặc san được phổ biến tài liệu này rộng rãi trên internet.
 

VỀ MỤC LỤC

ĐÁP LẠI TÌNH YÊU

 

THIÊN CHÚA là TÌNH YÊU  Ai ở trong TÌNH YÊU  Là ở trong THIÊN CHÚA

   (1 Ga 4,16)

VẤN VƯƠNG

Hạt sương cũng biết thầm thì,

Cỏ cây cũng biết nằn nì nhỏ to,

Gió trăng cũng biết chuyện trò,

Đợi tôi, Người cũng hẹn hò yêu thương.

Nên chăng thì cũng lên đường,

Chiếc neo bỏ lại

Vấn,

Vương,

Bên bờ ./.

 

NGẬP NGỪNG

Đã nghe ra tiếng tỏ tình

Nghe rồi, vẫn cứ làm thinh ậm ừ.

Nghe rồi, vẫn cứ chần chừ.

Vẫn ngài ngại thốt, vẫn ngần ngừ thưa.

Vẫn còn sợ gió, e mưa.

Vẫn còn tiếc chút hương thừa đâu đây.

Con chim còn tiếc cành cây,

Ánh trăng còn tiếc bóng mây rụt rè.

 

Rằng nghe thì hẳn là nghe

Mà sao khó hứa, khó thề thế kia !

 

NGỠ NGÀNG

Sao Người lại nói yêu tôi

Để nghe bối rối, bồi hồi, xôn xao.

Sáng mây thấp,

Chiều mây cao,

Tôi nhìn mà thấy nao nao trong lòng.

Sáng hừng đông,

            Mà tối cũng hừng đông,

Tôi nhìn và thấy trong lòng nao nao.

Nước chảy lao xao,

Sóng khẽ thì thào,

Tôi nghe lại thấy nôn nao trong lòng.

Nước lờ lững một dòng,

Thuyền nhẹ lướt mặt sông,

Mà tôi cứ ngỡ thuyền lòng của tôi.

Ôi tình ơi, hỡi tình ơi !

Sao Người chọn lấy đời tôi hỡi Người ?

 

Phương Bắc đầy ắp sao trời,

Tôi nhìn bỗng thấy một ngôi rạng ngời.

 

Sao ơi !

Nầy hỡi Sao ơi !

Xin Sao gìn giữ tình tôi mặn nồng.

Để cho sáng cũng hừng đông.

Mà đêm đến cũng hừng đông cuộc tình.

 

Cúi đầu tôi cứ lặng thinh

Để nghe Người Ấy tỏ tình cùng tôi.

Ôi Người ơi !

Hỡi Người ơi !

Sao Người lại chọn đời tôi hỡi Người ?

 

HẠNH NGỘ

Bởi chưng tôi gặp được Người

Nên tôi cứ nói, cứ cười huyên thuyên.

Phải đâu tôi cố làm duyên

Nhưng tôi vui quá, ưu phiền làm sao ?

Gặp Người, dạ cứ nao nao.

Tôi cười tôi nói phải nào tại tôi !

Ai yêu mà lại không vui ?

 

NHÀ TÔI

Trước nhà có một con kênh

Trong nhà có một mối tình cỏn con.

Con kênh chờ bóng trăng tròn,

Mối tình đợi cuộc thành hôn với Người ./.

 

TÌNH YÊU

Riêng tặng anh Xuân Thành

Chữ tình là chữ lặng thinh,

Cho nên yên ắng mới tìm thấy nhau.

Chữ yêu là chữ vô cầu,

Cho nên bỏ hết mới mau tròn đầy.

 

Ôm cho kín hết hai tay,

Ghì cho thịt nát xương bày thì thôi.

Hỏi ai có thấu tình tôi ?

 

HOA XUÂN

Kính tặng † Cha Đa-minh Chu Quang Đương OP

Mùa xuân trên đỉnh đồi cao

Có cây diệu vợi nở trào máu tươi.

Dưới đồi đưa mắt trông vời,

Đóa hoa lạ quá, cứ ngời sắc xuân.

Dốc nghiêng dọ dẫm bàn chân,

Leo lên hái cánh hoa xuân đem về ./.

 

TÌNH LẶNG

Có tình yêu rất thực

Ở tận đáy lòng tôi,

Bỗng dưng Người chạm đến

Tình dậy, tình lên ngôi.

 

Tình im như hoa nở

Mà hương tình ngất ngây.

Tình thầm như sương đổ

Mà hơi tình đắm say.

 

Tình lan trong gió.

Tình hoà trong mây.

Tình chen trong cỏ.

Tình lẩn trong cây.

 

Có tình yêu rất lạ

Trải rộng khắp muôn nơi.

Ai yêu rồi mới rõ

Chuyện tình yêu không lời ./.

 

VU QUY

’Người yêu tôi khi tôi còn là tội nhân

 

Xe hoa đã sẵn kia rồi

Soi gương ngắm lại, ôi thôi sững sờ !

Áo xiêm tơi tả bơ phờ,

Má phai màu phấn, môi mờ màu son.

Đâu rồi dáng ngọc lưng tròn,

Đâu là kiều diễm, đâu còn thướt tha ?

Đầm đìa hai vạt lụy sa.

Tấm thân như thế, ai mà xun xoe !

Càng trông càng thấy não nề,

Càng trông càng thấy ê chề ruột gan.

Phải chi lá ngọc cành vàng,

Thì yêu cho thoả, cho tràn trề yêu !

 

Chàng rằng : Đừng nói năng nhiều !

Chàng yêu đâu phải mỹ miều mà yêu.

Đã yêu thì cái tiêu điều,

Cái phờ phạc ấy cũng yêu điên cuồng.

Cần chi quốc sắc thiên hương,

Đã yêu thì dẫu tầm thường cũng yêu.

Đã yêu ba bảy cũng liều.

Đã yêu thì biết bao nhiêu mới vừa ?

 

Xe hoa đã có chàng đưa,

Gạt nhanh giọt lệ mà thưa : Tùy chàng.

Thân này tiều tụy võ vàng,

Chàng yêu thì thiếp theo chàng lên xe.

Bảo về thì thiếp theo về,

Chút duyên còn lại xin thề dâng trao.

 

Đàn chim ngoài ngõ xôn xao,

Con tim trong thiếp nôn nao lạ thường.

Ô hay cái nghĩa yêu đương

Bừng lên khoé mắt còn vương lệ trào.

 

Lên xe mà ngỡ chiêm bao ./.

 

CON SÁO

Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”

“Ai đem con sáo sang sông

Để cho con sáo sổ lồng bay xa !

Sáo bay, con sáo sa đà,

Ai kêu con sáo về nhà giùm tôi !

Tháng năm tắt bặt tăm hơi,

Nhớ thương con sáo mù khơi lạc đàn.

Thu tan rồi tới đông tàn,

Thấy con én lượn giăng ngang bầu trời.

Én ơi có thấy sáo tôi

Thì xin nhắn giúp đôi lời thở than :

Rằng đông đã hết, xuân sang

Mà sao sáo mãi hoang đàng nơi đâu ?

Có hay những trắng đêm thâu

Có người trằn trọc những sầu những thương ?

Sáo ơi đã lỡ lạc đường

Thì quay nhanh lại kẻo vương lưới người.

Hoa kia đã chớm nụ rồi,

Về mau để đón đất trời vào xuân ./.

 

HỜN DỖI

(Hs 2,15-22 . 14,5-8)

Con trăng ngủ dưới dòng sông,

Con đò gọi mãi mà không trả lời.

Con đò giận, bỏ ra khơi.

Con trăng hoảng hốt rụng rời con tim.

Tim trăng từng mảnh im lìm

Trôi ra biển lớn để tìm đò con.

Con đò quay mặt dỗi hờn,

Con trăng níu lại van lơn đủ điều.

Con đò không nén được yêu

Vớt con trăng vỡ nâng niu trong lòng.

 

Con đò trở lại dòng sông

Con trăng yên ngủ ở trong con đò ./.

 

CON SÂU

Con sâu nó bảo nó buồn,

Còn tôi, tôi bảo tôi luôn yêu đời.

Con sâu nó sống đơn côi,

Còn tôi, tôi sống với người chung quanh.

Con sâu cắn lá trên cành,

Tôi mang nước tưới cho nhành đâm hoa.

Con sâu thơ thẩn bò ra,

Còn tôi, tôi trở lại nhà của tôi ./.

 

CÀNH LÁ GÃY

Cây lau bị giập Ngài không nỡ bẻ

 

Nâng niu cành lá gãy trên tay.

Bước chân ai dẫm đạp thế này !

Sao chẳng tiếc cho màu xanh của lá ?

Lá héo mất rồi. Ai có hay ?

 

ĐOM ĐÓM

Đêm đêm đom đóm lập loè

Có xua đi được đêm che cuộc đời ?

Sáng lên một chút. Thế thôi ?

 

GIA-KÊU

 

Gia-kêu :

Có ai tủi phận đến như tôi,

Thấp bé không nom được mặt Người !

Thôi hẳn nhờ cây cao chắp gót,

Miễn sao hưởng kiến được thì thôi.

 

Chúa Giê-su :

Anh chàng thấp bé dễ thương ơi,

Ai bảo rằng cao mới tới trời ?

Nước Trời không ở đâu xa ngái,

Nước Trời ngay ở tự lòng thôi.

 

Gia-kêu :

            Mời Ngài ghé lại nhà tôi

Cho trời cao hạ xuống đời hàn huyên ./.

 

CHÀNG HẢI ÂU VỚI ĐÔI CÁNH GÃY

Chàng hải âu bé nhỏ

Ôm mộng vượt đại dương

Bay qua biển vô thường

Đến làm tổ trên cành cây vĩnh cửu.

 

Đường thì xa tắp,

Mãi tít chân trời vẫn chưa thấy bóng đất liền hé lộ.

Đôi cánh gầy guộc đập liên hồi.

Mù khơi.

Cũng mặc, cứ thẳng đường bay tới.

 

Ngày lại ngày tiếp nối.

Tháng rồi tháng kề nhau.

Khi thì nắng quái, lúc lại mưa sâu,

Có lúc lại dữ dằn bão tố.

 

Dưới kia thì biển gầm sóng vỗ,

Biển há mồm như muốn hớp lấy cánh chim bay.

Có lúc quang đãng, có lúc lại vần vũ trời mây.

Cũng mặc, cánh chim cứ bay hoài như không hề biết mỏi.

 

Thế nhưng, chàng cũng chỉ là con hải âu yếu đuối.

Sức hơi nào rồi cũng đến rã rời,

Từng chiếc lông rụng xuống tả tơi,

Và đôi cánh kia bắt đầu rướm máu !

 

Máu thì máu, cũng mặc, chàng cứ bay mà chẳng hề muốn đậu.

(Dù trên những cánh buồm con cũng có chỗ cho chàng nương náu)

Chàng cứ bay, bay mãi miết không thôi.

 

Một hôm kia, đôi cánh, than ôi !

Gãy cụp xuống như cành khô trong cơn gió dữ.

Chàng cắn răng cố nén cơn đau để băng mình lên phía trước.

Cánh gãy rồi, sao mà bay được ?

Thế nhưng chàng vẫn cứ bay !

 

Và ô kìa, lạ kỳ thay

Chàng vẫn bay được dù chỉ là với đôi cánh gãy.

 

Ngày vẫn còn nối tiếp ngày.

Tháng vẫn còn liền kề tháng.

Đất hiền vẫn chưa ló dạng.

Và chàng hải âu với đôi cánh gãy vẫn còn bay ./.

Trầm Tĩnh Nguyện

VỀ MỤC LỤC
   Ý NGHĨA và ƠN ÍCH  CỦA THÁNH LỄ MISA

 

Hỏi: Xin cha giải thích rõ vì sao Thánh Lễ ngày nay là sự tái diễn Hy Tế của Chúa Giêsu xưa trên thập giá.

Trả lời: Thánh Lễ Tạ Ơn (the Eucharist = Holy Mass = Missa) được coi là đỉnh cao (summit) và là suối nguồn ơn phúc của đời  sống Giáo Hội.Nghĩa là, trong Giáo Hội, không có việc đạo đức nào cao trọng và có giá trị thiêng liêng hơn Thánh Lễ Tạ Ơn.

 Sở dĩ thế vì  Thánh Lễ Tạ Ơn là sự tái diễn cách bí tích hai việc quan trọng nhất mà chính Chúa Giêsu đã thực hiện trước khi Người chết và sống lại. Đó là Bữa Tiệc Ly cuối cùng qua đó Chúa Giêsu đã thiết lập hai bí tích quan trọng là Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Truyền Chức Thánh và cuộc Hy Tế cực trọng của Người  ngày hôm sau trên thánh giá, trong đó Chúa Giêsu vừa là Linh mục, vừa là Bàn thờ và là Lễ vật.

Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã biến bánh và rượu nho thành Mình và Máu Người cho các Tông Đồ hiện diện ăn và uống với lời căn dặn “ anh  em  hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22:19). Nghĩa là Chúa truyền cho các Tông Đồ trước hết và những người kế vị các ngài sau này là các Giám Mục và phụ tá thân cân là các Linh mục hãy tiếp tục dâng Hy Tế  đền tội và tạ ơn để làm sống lại cách bí tích việc Chúa biến bánh và rượu ra Mình và Máu Người và máu này đã thực sự đổ ra trong Hy Tế  trên thập giá sau đó để đền tội thay cho toàn thể nhân loại đáng phải phạt vì tội lỗi. Nói khác đi ,Thánh lễ Tạ Ơn là sự tái diễn mầu nhiệm thánh thể và Hy Tế thập giá mà Chúa Giêsu là Chủ tế một lần xưa kia trong Bữa Tiệc Ly và trên Thập giá.

Gọi là Thánh lễ Tạ Ơn vì trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu “cầm bánh trong tay thánh thiện khả kính, ngước mắt lên trời hướng về Chúa là Cha toàn năng của Người  TẠ ƠN Chúa, dâng lời chúc tụng  bẻ ra trao cho các môn đệ mà nói:… Người cầm lấy chén cũng TẠ ƠN Chúa, dâng lời chúc tụng, và trao cho các môn đệ mà nói:…..(x. Kinh Nguyện Tạ Ơn I). Chúa Giêsu dâng lời cảm tạ Chúa Cha đã nhận hy tế đền tội của Người dâng  thay cho cả nhân loại.Vì thế Giáo Hội đã dạy rằng : “ mỗi lần hy tế thập giá được cử hành trên bàn thờ, nhờ đó, “Chúa Kitô, Chiên vượt qua của chúng ta chịu hiến tế”( 1Cor 5,7) thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện”(x. Lumen Gentium, số 3)

Nghĩa là , xưa trên thánh giá, Chúa Giêsu tự hiến làm con chiên bị đem đi giết và Người đã thực sự đổ máu khi bị tên lính cầm lưỡi đòng đâm vào cạnh sườn khiến máu cùng nuớc chẩy ra.(x Ga 19:34).Tối hôm trước đó, khi trao chén rượu cho các Tông Đồ uống trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã nói: …Đây là chén máu Thầy, máu giao ước mới và vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và cho nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.” 

Như vậy, mỗi khi cử hành Thánh Lễ Tạ ơn, thì Chúa Giêsu lại hiện diện và đổ máu cách bí tích để đền  tội cho chúng ta ngày nay như Người đã đền tội  cho tất cả những ai đã sinh ra và chết đi truớc khi Người đến .Xưa kia Người đổ máu thực sự trên thập giá, ngày nay trong Thánh Lễ, Người  lại đổ máu một lần nữa nhưng bằng cách bí nhiệm khiến giác quan loài người không xem thấy được nhưng Giáo Hội tin và dạy con cái mình phải tin để được ơn cưú độ.

Tóm lại, Thánh Lễ Tạ ơn là sự tái diễn Bữa Tiệc Ly và Hy tế đền tội thay cho nhân loại  của Chúa Kitô xưa trên thập giá được làm sống lại trên bàn thờ ngày nay qua nghi thức phụng vụ thánh mà Giáo Hội cử hành. Vì thế,  Thánh Lễ Tạ ơn là việc thờ phượng  cao trọng nhất, đẹp lòng Thiên Chúa nhất và có giá trị cứu rỗi nhất  mà Giáo Hội dâng lên Chúa Cha nhờ Chúa Kitô và hiệp với Chúa Kitô qua tác vụ của các thừa tác viên có chức thánh(ordained ministers) là Giám mục hay Linh mục.

Chính vì ý nghĩa và giá trị thiêng liêng lớn lao  này của Thánh  Lễ Tạ ơn mà  mọi người tín hữu được mời  gọi nên siêng năng tham dự Thánh Lễ để hiệp cùng với Chúa Giêsu và nhờ Người,  chúng ta dâng lên Chúa Cha lễ vật là chính hồn xác chúng ta cùng với mọi vui buồn sướng  khổ đang trải qua trong cuộc sống hiệp thông với hy sinh cực trọng của Chúa Kitô để xin ơn tha thứ và phúc lành cho mình và cho người khác;  còn sống cũng như đã qua đời.

Đó là tất cả ơn ích và ý nghĩa cao trọng của Thánh Lễ Tạ Ơn cũng như  vì sao việc cử hành này  được coi là “lập lại giao ước của Chúa với con người.” (x. Sacrosanctum Concilium, số 10). 

LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.  

VỀ MỤC LỤC
Hai năm thương nhớ bạn: LM nhà văn Joseph Vũ Xuân Huyên;

Nhạc sĩ Từ Duyên- LM  Joseph Vũ Anh Thu

 

VĂN TẾ XUÂN HUYÊN

(Hai năm thương nhớ bạn: LM nhà văn Joseph Vũ Xuân Huyên,

 cha sở giáo xứ Plasselb, Thụy Sĩ. Tạ thế ngày 28-07-2004)

 

Anh Huyên !

Anh Vũ Xuân Huyên !

Tuyết tiêu – Vân tán.

Vỡ mảnh trăng hiền !

 

Trai đất Việt, vượt bán cầu cảm thương đời di trú !

Khách trời Âu, lòng đôi ngả nhung nhớ nỗi chim quyên.

Thân xứ lạ, cần cù tâm khai phá,

Dạ quê nhà mài miệt trí thiên duyên.

 

Nhớ xưa :

Tuổi niên thiếu tung tăng vào chủng viện,

Lứa thanh xuân chăm chỉ cuộc tu hiền.

 

Nhật nhật khẩn cầu tam vị Chúa,

Niên niên ngưỡng vọng cửu trùng Thiên.

Lòng theo lý tưởng !

Chí vững trung kiên !

Mộng khôn lớn dắt dìu dân Chúa,

Ước trưởng thành nâng đỡ đàn chiên.

 

 Ngờ đâu :

Con tạo vần xoay dời thương hải !

Thiên cơ bất lậu biến tang điền.

Thầy trò ly tán !

Bè bạn lạc thuyền.

 

Chẳng cam tâm yên thân nương rẫy !

Quyết một lòng rong duổi vượt biên.

Định cư nơi Thụy Sĩ,

Đeo đuổi chốn nhiệm huyền.

 

Có tiếng Chúa, trao ban hàm linh mục !

Có lời Ngài, gọi chăn dắt bầy chiên.

Đến giờ phút, chân son bước lên bàn thánh!

Đáo hạn kỳ, tay ngọc dâng chén tinh tuyền.

Nâng cao đĩa bạc !

Khóac cánh y huyền !

 

Trang giấy trắng khơi thông dòng chân lý !

Ngọn bút thần vạch tỏ lối duy thiên.

Ngày sáu khắc nhớ quê hương vò võ!

Đêm năm canh thương đất mẹ nào quên.

 

Thương ôi:

Một đêm bão tố !!

Cánh hạc quy tiên !!

 

Mây kéo khân tang, hải ngoại tuyết trắng rơi bao phủ!

Gió gào thổn thức, quê nhà mưa đen đổ triền miên.

Gẫy cánh thiên di, chim hồng sa đơn độc !

Đứt buồm hải lộ, thuyền bạc vỡ oan khiên.

 

Tin đau đớn, nghĩa kim bằng ngơ ngác !

Luống nghẹn ngào, tình Khai Phá chao nghiêng.

 

 Ân sư nhung nhớ !

Bằng hữu sao quên !

 

Dâng thánh lễ, khấn xin anh an nghỉ !

Khúc tâm ca, khẩn nguyện giấc trường miên.

 

Hẹn ngày chung cuộc !

Hội ngộ đoàn viên !…

Bùi Nghiệp

 

VĂN TẾ ANH THU

(Hai năm thương nhớ bạn: Nhạc sĩ Từ Duyên- LM  Joseph Vũ Anh Thu,

 cha sở giáo xứ Dầu Giây, ĐP Xuân Lộc- VN. Tạ thế ngày 29-06-2004).

 

Anh THU ! 

Anh VŨ ANH THU !

Trần gian cận số,

Tiên cảnh viễn du !

 

Phần tư kỷ, giang tay dòng tư  tế!

Nửa đời người, chân trụ cửa nhà tu.

Cất tiếng khóc, nhập nhân sinh làng Gia Cốc,

Rộn câu cười, vào chủng viện đất xứ Chu.(*)

 

Hai mươi tháng tám,

Một chín sáu tư !

Chung thầy chung lớp, nhã nhạc sử kinh say sưa chăm chỉ

Cùng bạn cùng bè, văn chương toán pháp mài miệt cần cù.

Ước đem chân lý, đánh cá ngon vui nghề ngư phủ !

Mộng lấy tin mừng, gieo luá tốt hả nghiệp nông phu.

 

Hay đâu: Thay cờ đổi chủ!

Nào ngờ: Quốc vận thiên cơ!

Trò tan tác xa thầy, bốn phương tứ tán!

Trường nghẹn ngào vắng bạn, một chốn âm u.

 

Người tu sĩ dấn bước vào đời: Xã Đồi 61,

Áo thanh niên xung phong lao nhọc, vững một lòng tu.

Hai chín tuổi: Thiên Chúa triệu vời lên hàng Linh Mục.

Năm tám mươi: Bề Trên  ban gọi phó xứ Phương Du. (**)

 

 Miệng anh mở loan truyền lời chân lý!

Tay anh giang ẵm trọn khối dân cư.

Các vùng đất : Phương Lâm -– Thanh Sơn -– Bác  Ái, vòng ôm chưa đủ.

Những điạ danh : Bình Lâm -– Phú túc -– Dầu Dây, gót bước đã dư.

 

Ngày lại ngày miệt mài dựng xây nhà Chúa!

Đêm từng đêm thao thức thánh nhạc trầm tư….

 Trời Xuân Lộc: tưng bừng nhịp thánh ca vô tận!!

Đất Đồng nai: rộn rã cung huyền diệu vi vu.

Sức tuy kiệt lần hồi khô cạn,

Thần chưa suy ăm ắp còn dư ..

 

Thương ôi:

Một giây đột tử !!!

Nửa khắc gẫy cờ !!!

Ong cần mẫn một đời ươm mật,

Tằm miệt mài suốt kiếp nhả tơ.

Anh nằm đó : Vạn chiên non khăn tang thổn thức!

Quanh anh đây : Trăm đồng đạo quặn thắt hát ru…

 

Tôi đến viếng anh,

Bạn bè Khai Phá.

Thắp nén hương lòng,

Vĩnh biệt ngàn thu!…

Bùi Nghiệp

(*) Chủng viện Châu đốc

(**) Giáo xứ Phương Lâm

VỀ MỤC LỤC
Nhu Cầu Cận-Tử

 

Câu Chuyện Thầy Lang

Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức                                                           

... Cận-Tử là thời gian lão đang lần bước tới ngưỡng cửa Tử Biệt, của sự “dùng dằng nửa ở nửa đi”..Mà dùng dằng thì còn đôi chút quyến luyến, tiếc rẻ, nấn ná, cố kéo dài một it thời gian với cuộc đời. Nấn ná vì lão vẫn không tin rằng lão chỉ còn dăm tháng để hít thở không khí trần gian, để được gần gũi người vợ hiền, bầy con cháu. Và bạn bè quyến thuộc gần xa...

Khi được thầy thuốc cho hay bệnh đang đi vào giai đoạn cuối thì lão có những tâm trạng khác nhau.

Lão ngạc nhiên không tin chuyện đó có thể xẩy ra cho lão. Lão lão hốt hoảng kêu lên “ Chắc là có sự lầm lẫn nào đây. Ðâu có phải là mình nhỉ”!?. Lão cho rằng bệnh nhân giường bên kia ra đi sớm mới phải vì đương sự gầy gò ốm yếu, suốt ngày ho sù sụ, luôn luôn thở dốc, chứ lão đâu đã đến nỗi gì. Ðây cũng là phản ứng tự nhiên của nhiều người chứ chẳng riêng gì lão. Tự nhiên vì sắp mất tất cả mọi sự trên đời thì ai chẳng ít nhiều tuyệt vọng, đau khổ, bất mãn...

 Nhưng mỗi lần gặp mặt, thấy ông thầy thuốc nghiêm nghị hơn, dè dặt hơn thì lão linh cảm là đúng. Ðôi lúc lão cũng đã ấm ức trách vị lương y vì chẳng chịu khó tìm kiếm phương thức thần diệu hơn để chữa cho mình.

Rồi lão cầu nguyện, mặc cả điều đình với đấng thiêng liêng giúp lão, cứu lão ra khỏi cơn bạo bệnh này, với lời hứa là từ nay sẽ sống đàng hoàng hơn, điều độ hơn. Từ hơn hai năm nay, khi thấy ho nhiều, lão bỏ hẳn rượu, thuốc lá, ăn nhiều rau trái cây và còn đi bô mỗi ngày, một việc mà trước đây không bao giờ lão nghĩ tới. Rồi thì lão được xác định bị ung thư phổi. Chẳng là vì lão hút thuốc lá từ năm 19 tuổi, hơn một nửa thế kỷ liên tục mang khói vàng của điếu thuốc vào phổi...Lão bắt đầu ho nhiều, khó thở, kém ăn, xuống cân..Và lão bắt đầu trị liệu..

Lão mong có phép lạ để lão sống thêm vài năm nữa, cho tới khi đứa con út tốt nghiệp đại học. Rồi ra đi cũng mãn nguyện...

 Ðến khi y giới lắc đầu chịu thua thì lão thấy không còn hy vọng, lão trở nên buồn rầu, chẳng muốn gặp ai.

Có người nói lão sợ chết. Thời gian đầu khi nghe nói bệnh không chữa được thì quả tình lão có hoảng hốt sợ hãi thật. Ai mà chẳng sợ mất sự sống, phải lìa bỏ những gì đã gắn bó với đời mình cả nhiều chục năm. Nói rằng không sợ thì chỉ là dối lòng, phủ nhận chối bỏ sự thật. Bây giờ thì lão chấp nhận những giới hạn của chữa chạy. Nhiều lúc, lão cũng nghĩ là sống tới tuổi ngoài thất tuần của lão hiện nay cũng đã quá nhiều Ngày xưa cha mẹ lão chỉ thọ tới sáu chục tuổi. So với bố mẹ, “Bonus” tuổi mà Thượng Ðế dành cho lão đã quá nhiều...Lão chấp nhận và  chỉ mong sao được ra đi bình an, thanh thản...

Nhưng lão cũng nghĩ tới một số nhu cầu, một số mong muốn được đáp ứng trước khi tử biệt. Những nhu cầu căn bản của con người nhưng đơn giản hơn, nhẹ nhàng hơn...

Vì lão nghĩ, dù trong tình trạng cận tử, lão vẫn còn là một sinh vật, vẫn còn cảm nghĩ, suy tư, rung động, vẫn còn đôi chút nhu cầu vật chất, những tình cảm thương yêu, tiếp xúc. Vậy thì lão vẫn còn những mong muốn. Y giới cũng đồng ý với lão rằng người cận tử có quyền được cung cấp một số đòi hỏi.

Lão quyết định sẽ chết đàng hoàng, trong tôn trọng. Lão nghĩ là lão may mắn có được một mái nhà ấm áp để sửa soạn ra đi chứ không cầu bơ cầu bất như nhiều người bất hạnh, tứ cố vô thân, không người thừa nhận.  Lão đang ở trong một  cơ quan chăm sóc người cận tử.

 Lão nhớ lại, ngày xưa người ta thường chết ở nhà, nơi mà vợ chồng con cái sống chung với nhau thế hệ này qua thế hệ khác. Người ta sửa soạn cho sự chết giữa những người thân yêu, được người thân yêu quây quần chăm sóc. Mọi người có thời giờ  thong thả nói với nhau, bàn bạc cùng nhau về hậu sự, về chuyện tương lai của các thành viên trong gia đình. Người chết được thân nhân tắm rửa bằng nước cỏ cây hoa lá nhiều mùi thơm, thân xác nguyên vẹn và được mặc quần áo mới may thật đẹp. Áo quan là những mảnh gỗ vàng tâm, gỗ gụ. gỗ lim...sắm sẵn dùng làm phản nằm cho bóng dẩu mồ hôi, để khi hữu sự thì làm áo quan, mang thân xác ra đi. Người chết được quyến thuộc bạn bè tới tận nhà để nhìn mặt nhau lần cuối,  đưa tơi huyệt để vĩnh biệt chia tay...

Bây giờ thì mọi sự đều đổi thay, vì hoàn cảnh, nhu cầu cuộc sống. Người ta chết ở bệnh viện, ở nhà thương, ở nhà “hospice”, đôi khi trên xa lộ, tại thương xá, giữa biển cả, trên núi cao...Thôi thì “gặp thời thế, thế thời phải thế”, chọn lựa làm chi...Cũng là một cách chấm dứt sự sống...

 Lão đã làm giấy từ chối mọi phương thức chữa chạy mạnh mẽ như là “gắn dây chỗ này, cài máy chỗ kia” trên cơ thể. Trong di chúc, lão ghi rõ rõ ý muốn chăm sóc y tế như thế nào trong trường hợp mình không nói được vào giai đoạn cuối cuộc đời, khi không còn hy vọng cứu chữa. Lão cũng làm giấy ủy quyền cho một thân nhân quyết định phương thức điều trị khi lão hết sáng suốt. Lão đã tìm hiểu về chương trình chăm sóc cận tử -hospice- nên lão xin vào đây để hy vọng được nhẹ nhàng ra đi không đau đớn vì những biến chứng bệnh của ung thư... 

Trước hết lão muốn được gặp gỡ tất cả thân bằng quyến thuộc nhất là người bạn trăm năm với các con các cháu. Hơn mấy chục năm chung sống với biết bao kỷ niệm buồn vui có nhau. Lão đã làm hết nhiệm vụ cho gia đình và lão cũng muốn nhân dịp này nhìn lại các thành quả đó trên gương mặt mọi người với những lời nhắn nhủ cuối cùng. .Lão cũng cần giải quyết mọi chuyện với người thân thiết để đôi bên chia tay trong bình an...Và lão cũng được nắm bàn tay những  người thân yêu lần cuối, bàn tay đón lão vào đời, bàn tay tiễn đưa lão vĩnh viễn ra đi..”Xin chia tay, và nếu là mãi mãi, thêm một lần, xin mãi mãi chia tay”- một nhà thơ nào đó đã viết...

Lão mong muồn được đối xử như người còn sống. Theo lão, cận tử mới chỉ là gần chết, sẽ chết vì sự sống chỉ ngưng sau khi lão không còn hơi thở, tim lão ngưng đập, não bộ tê liệt. Lão vẫn còn là một sinh vật với mọi ý nghĩa của nó,  như là có suy tư,cảm xúc, quyền hạn như mọi người. Có vui, có buồn, có hy vọng, có thương yêu...

Lão cần được duy trì các hy vọng dưới mọi hình thức. Hy vọng có thuốc tiên, có phương thức kỳ diệu để lão lành bệnh. Mặc dù biết rằng bệnh của lão đang đi vào giai đoạn cuối, những hung bào ung thư đã xâm lấn nơi xa, nhưng “còn nước còn tát”, lão vẫn hy vọng ở một phép lạ đến với lão. Lão đang cầu nguyện ơn trên. Rồi lão hy vọng những cơn đau không hành hạ mình. Hy vọng con cái gần mình. Hy vọng không chết đơn côi. Xin ai đó đừng làm tiêu tan hy vọng của tôi với lời an ủi xã giao, có lệ, “hãy nhìn vào sự thật, đừng mong ở phép lạ”...  Hy vọng có thể lành. Hy vọng chết không đau đớn. Hy vọng vợ hiền, con cháu ở lại bình an. Hy vọng mình được về nơi vĩnh phúc..Xin đừng thổi tắt những ngọn lửa hy vọng của tôi!

Dù thời gian không còn bao lâu, nhưng lão vẫn mong muốn tiếp tục được chăm sóc bởi những người có khả năng, hiểu biết, thông cảm với hoàn cảnh, bệnh tình  của lão. Lão vẫn muốn  tiếp tục nhận dịch vụ y tế, dù mục tiêu bây giờ là làm nhẹ bệnh thay vì chữa khỏi...Những giải thích về bệnh của tôi từ bác sĩ, những hướng dẫn ăn uống từ điều dưỡng viên, sự chăm sóc vệ sinh cá nhân cũa người y công...đều làm ấm lòng tôi hơn, thoải mái hơn...Dù biết rằng sắp chết, tôi cũng vẫn cần...xin đừng cô lập tôi, bỏ tôi một mình trong sợ hãi!!!Lão nhớ có một tác  giả nào đó đã viết: “Chết không phải là kẻ thù; sống với  ám ảnh sợ hãi nó mới là kẻ thù...”

Lão cũng muốn được tham dự vào các quyết định liên quan tới lão. Về các phương thức trị liệu; cách ăn uống, sinh hoạt hàng ngày. Ngay cả hình thức ma chay, chôn cất mà lão đã sắp đặt đâu vào đó.. Ðôi khi thân nhân không muốn kẻ sắp vĩnh biệt ra đi bận tâm với thủ tục, chi tiết rườm rà, nên quyết định hộ. Làm vậy là ta đã phủ nhận quyền quyết định của họ, coi họ như bất lực và vô hình dung giảm giá trị của họ...

Lão cần được giải thích đầy đủ và ngay thẳng cũng như có quyền nêu ra những thắc mắc về sự chết  Nhiều khi thầy thuốc không muốn nói tới chết chóc với bệnh nhân đau nặng, vì muốn để họ còn hy vọng. Hoặc cho rằng bệnh nhân đã biết rồi. Vì khó nói làm sao ấy. Lão cũng thông cảm với hoàn cảnh khó xử của người thầy thuốc đang chăm sóc lão. Nhiều lúc lão thấy ông ta dường như muốn nói với lão một điều gì quan trong, nhưng lại ngập ngừng. Chắc lại  là chuyện “vô phượng trị liệu” về bệnh của lão chứ gì!? Thực tội nghiệp cho ông bác sĩ! Ðược huấn luyện để xua đuổi tử thần xa sự sống, chứ đâu có được hướng dẫn để nói về sự chết với bệnh nhân...

Từ lúc sinh thời, lão vẫn có một đức tin tôn giáo thì giờ đây lão cần sự chăm sóc tâm linh, để linh hồn lão có nơi tá túc bình an. Người ta muốn được lên cõi Thiên Ðàng, tiêu diêu miền Cực Lạc thì lão cũng muốn được về nơi vĩnh cửu mà lão đã từng  ấp ủ. Lão muốn  được tâm sự với vi lãnh đạo tinh thần mà lão đã quen biết từ nhiều chục năm nay, để sửa soạn cho linh hồn lão...

 Lão cũng cần được giải thích về diễn tiến của sự chết; Vì lão nghe nói khi chết thì sẽ có những khó khăn, những thay đổi về thể xác cũng như linh hồn. Liệu lão có bị những cơn đau bệnh hoạn xâu xé cơ thể!? Liệu những hoảng loạn, ác mộng có đến với lão?. Lão có mất ngủ, kém ăn, bí đại tiểu tiện...bác sĩ sẽ làm gì để giúp lão ra đi nhẹ nhàng?

Lão cần sự giải thích thành thực, sự thông cảm của thầy thuốc. Lão không muốn sống trong u mê, lo sợ của sự chờ chết....Lão nhớ lời nhắn nhủ của Nữ tu đáng kính Theresa Ðừng sợ hấp hối vì nó rất giản dị...” 

Lão chỉ cần có vậy.....

Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức , Texas-Hoa Kỳ

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Được chọn giữa loài người và cho loài người; GÍAO SĨ: Xuất phát từ gíao dân, hiện diện vì gíao dân và cậy dựa vào gíao dân, để cùng làm VINH DANH THIÊN CHÚA

*************